QĐND - Mặc dù bị thất bại nặng nề trong những năm từ 1965 đến 1967 và phong trào phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam phát triển ngày càng rộng lớn trong lòng nước Mỹ và trên thế giới, song giới quân sự hiếu chiến Mỹ vẫn tiếp tục ráo riết chuẩn bị cuộc phản công chiến lược lần thứ ba, khiến tình hình trên chiến trường miền Nam nước ta diễn biến phức tạp. Ta đã thắng lớn nhưng chưa làm chuyển biến cục diện chiến trường. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta họp vào tháng 12-1967 và Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14, tháng 1-1968, quyết định: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định”.

Các nữ Thanh niên xung phong miền Nam vận chuyển vũ khí vào nội đô, chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Ảnh tư liệu

Đây là nhiệm vụ nặng nề và cấp bách, đòi hỏi quân, dân ta ở cả hai miền Nam-Bắc nỗ lực vượt bậc với những cố gắng cao nhất. Bộ Chính trị chủ trương: "Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ở cả hai miền đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định". Thực hiện quyết tâm của Trung ương Đảng, đêm 30-1-1968 (đêm Giao thừa), quân và dân ta trên chiến trường miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 4 trong số 6 thành phố lớn, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ, tiến công vào hầu hết các cơ quan đầu não ở Trung ương và địa phương của Mỹ, chính quyền Sài Gòn. Ở các vùng nông thôn, lực lượng vũ trang địa phương hỗ trợ nhân dân nổi dậy, phá tan từng mảng hệ thống kìm kẹp của chính quyền Sài Gòn ở thôn, xã, giành thắng lợi quan trọng.

Để tạo thế và lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; phân tán lực lượng, kéo quân chủ lực địch ra khắp chiến trường toàn miền Nam, ta chủ trương mở chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn ở Mặt trận Đường 9-Khe Sanh. Đây là một đòn chính của bộ đội chủ lực ta, nhằm thu hút quân cơ động Mỹ, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận, vây hãm và giam chân địch, tạo thế cho các chiến trường khác, nhất là Sài Gòn-Huế-Đà Nẵng, trực tiếp là Huế, ta đã thu hút và kìm chân địch, tạo thế thuận lợi để mở thông đường vào chiến trường Trị Thiên-Huế tiến công và nổi dậy thắng lợi. Đòn tiến công Khe Sanh đã thu hút và vây hãm tới 40% lực lượng chiến đấu Mỹ, tạo điều kiện để ta tập trung mọi nỗ lực tiến công vào đô thị, nơi tập trung cơ quan chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương của chính quyền Sài Gòn, các sở chỉ huy quân Mỹ và quân đội Sài Gòn.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta chọn hướng tiến công chủ yếu là đánh thẳng vào thành phố, thị xã, thị trấn, nơi tập trung các cơ quan đầu não Trung ương và địa phương của chính quyền Sài Gòn, các sở chỉ huy, kho tàng, hậu cứ, sân bay, bến cảng… là cơ sở vật chất bảo đảm cho chiến tranh, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, nơi địch đang sơ hở. Mục tiêu tiến công chủ yếu là các cơ quan đầu não chiến tranh của Mỹ, chính quyền Sài Gòn, các trung tâm chỉ huy, các hậu cứ, vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa phá hủy phương tiện chiến tranh, đây là chỗ hiểm, dễ chấn động nhất. Trên toàn miền Nam, ta tiến công 4 bộ tư lệnh quân đoàn, 11/11 bộ tư lệnh sư đoàn, hầu hết các ban chỉ huy tiểu khu, trung đoàn bộ quân đội Sài Gòn, nhiều bộ tư lệnh sư đoàn, lữ đoàn Mỹ, 45 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần. Nhiều mục tiêu của địch bị ta tiến công nhiều lần, như: Sân bay Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Đà Nẵng, Chu Lai và nhiều tổng kho lớn: Long Bình, Nhà Bè, Liên Chiểu, Chu Lai, Phú Bài, Plei-cu, Buôn Ma Thuột, Quy Nhơn… Ở Huế, ta đồng loạt tiến công nhiều mục tiêu trong thành phố: Căn cứ Mang Cá, Sân bay Tây Lộc, khu Đại Nội, Cột Cờ, Ngọ Môn, Bưu điện, Ngân hàng, Trường Quốc học, Tòa nhà Tỉnh trưởng… Ở Sài Gòn, ta tiến công 6/9 mục tiêu chiến lược (Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Đài Phát thanh Sài Gòn, Dinh Độc Lập, Tòa đại sứ Mỹ, Bộ tư lệnh Hải quân, Tổng Nha cảnh sát). Trong khi đó, địch cho rằng ta chưa có khả năng đánh vào các trung tâm đầu não của chúng ở thành phố. Do đó, ta chọn thành phố, thị xã, thị trấn… làm hướng, mục tiêu tiến công chủ yếu đã làm cho địch bất ngờ, hoang mang, lúng túng, dẫn đến sai lầm về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật.

Tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, ta sử dụng nhiều lực lượng, gồm các đơn vị chủ lực, lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng chính trị quần chúng. Ở mỗi địa bàn, ta sử dụng lực lượng tác chiến phù hợp. Khi tiến công Đường 9-Khe Sanh, ta sử dụng các đơn vị chủ lực đánh vào quân chủ lực Mỹ, lực lượng nòng cốt trong chiến tranh. Tác chiến ở địa bàn thành phố, thị xã, thị trấn, ta sử dụng các đơn vị chủ lực của các quân khu, miền, lực lượng vũ trang địa phương làm đòn tiến công quân sự hỗ trợ cho quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Phát huy sức mạnh của các lực lượng cả quân sự và chính trị, cả chủ lực với địa phương trong tiến công và nổi dậy, tạo thành sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân. Thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đánh dấu sự thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc Mỹ phải chuyển sang phòng ngự trên toàn chiến trường, chấp nhận ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri, chủ trương “phi Mỹ hóa chiến tranh”, tạo một bước ngoặt lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Đại tá ĐÀO VĂN ĐÊ