QĐND - Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, ngày 9-1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên, mục tiêu tiến công chủ yếu là Buôn Ma Thuột, mở đầu cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Để chuẩn bị về hậu cần, kỹ thuật cho chiến dịch, ngay từ tháng 9-1974, Cục Hậu cần Mặt trận Tây Nguyên đã tiến hành làm công tác chuẩn bị. Cùng với việc tổ chức tiếp nhận vật chất từ Đoàn Vận tải chiến lược 559 đưa vào dự trữ, Cục Hậu cần Mặt trận Tây Nguyên đã gấp rút tổ chức Cơ quan Hậu cần Chiến dịch, bố trí lực lượng, cơ sở hậu cần, nhanh chóng tạo lập thế trận hậu cần phù hợp với yêu cầu tác chiến chiến dịch, để bảo đảm kịp thời cho các lực lượng chiến dịch chiến đấu trên các hướng với nhiều hình thức chiến thuật khác nhau và xử trí kịp thời mọi tình huống.
 |
Sơ đồ tổ chức, bố trí hậu cần-kỹ thuật Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4-3 đến 24-3-1975).
|
Trên cơ sở lực lượng hậu cần của các Binh trạm Hậu cần Mặt trận Tây Nguyên, Hậu cần Chiến dịch đã tiến hành thu hẹp các binh trạm, rút lực lượng để tổ chức thành những đơn vị hậu cần cơ động gồm: 2 tiểu đoàn kho, 2 tiểu đoàn vận tải ô tô, 2 tiểu đoàn vận tải bộ, 2 bệnh viện, 4 đội điều trị quân y, 2 trạm sửa chữa xe, 2 trạm sửa chữa pháo, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội thông tin. Cùng với lực lượng hậu cần-kỹ thuật của Tổng cục Hậu cần tăng cường, gồm: 1 tiểu đoàn vận tải ô tô, 1 đội điều trị, 1 trạm sửa chữa xe xích, một trạm sửa chữa ô tô, Hậu cần Chiến dịch Tây nguyên tổ chức triển khai thành 5 cụm hậu cần, 2 cụm ở phía sau và 3 cụm ở phía trước.
Trên hướng Bắc, Hậu cần Chiến dịch tổ chức 1 cụm hậu cần phía sau và 2 cụm hậu cần phía trước. Cụm hậu cần K10A ở phía sau làm nhiệm vụ tiếp nhận vật chất của tuyến vận tải chiến lược Đoàn 559 giao và các binh trạm hậu phương chuyển tới. Hai cụm hậu cần phía trước, Cụm hậu cần K10B được tổ chức đủ lực lượng kho tàng, vận tải, quân y, sửa chữa kỹ thuật xe, pháo trực tiếp bảo đảm cho Sư đoàn bộ binh 320, cùng 2 Trung đoàn bộ binh 25 và 95A, đánh địch trên Đường 14. Cụm hậu cần B38 được tổ chức đủ các thành phần lực lượng, có nhiệm vụ bảo đảm cho các lực lượng tiến công Buôn Ma Thuột từ hướng Bắc. Lực lượng để tổ chức 3 cụm hậu cần này gồm: Tiểu đoàn kho 375, 2 tiểu đoàn vận tải ô tô 827 và 372, 1 đại đội vận tải bộ, Bệnh viện dã chiến Z200, 2 đội điều trị 17 và 3, 1 đội vệ sinh phòng dịch, 1 trạm sửa chữa xe, 1 trạm sửa chữa pháo và 1 trung đội thông tin.
Ở hướng Nam, Hậu cần Chiến dịch Tây Nguyên tổ chức một cụm hậu cần phía sau và một cụm hậu cần phía trước. Cụm hậu cần K20A ở phía sau có nhiệm vụ tiếp nhận vật chất, tổ chức dự trữ và trực tiếp bảo đảm cho Sư đoàn bộ binh 10 đánh địch ở Đức Lập, Gia Nghĩa. Cụm hậu cần K20B ở phía trước với đủ thành phần lực lượng trực tiếp bảo đảm cho Sư đoàn Bộ binh 316 và các lực lượng khác tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột từ hướng Tây và hướng Nam. Lực lượng để triển khai 2 cụm hậu cần này gồm: Tiểu đoàn kho 375B, 2 đại đội vận tải ô tô, 1 tiểu đoàn vận tải bộ (thiếu), 1 Bệnh viện dã chiến Z100, Đội điều trị số 25 và số 2, Tổ vệ sinh phòng dịch, 1 trạm sửa chữa xe, 1 đại đội công binh và 1 đại đội thông tin (thiếu).
Các Cụm hậu cần K10A, K10B, K20A được triển khai từ sớm, còn các Cụm hậu cần B38 và K20B đến khi các đơn vị chiến đấu vào triển khai quanh Buôn Ma Thuột, hậu cần mới theo chân bộ đội vào triển khai. Các cụm hậu cần chiến dịch ở phía trước được bố trí cách hậu cần các sư đoàn chiến đấu khoảng từ 20km đến 30km, có đường vận tải ô tô. Ngoài 5 cụm hậu cần chủ yếu, trên dọc đường cơ động, hậu cần Chiến dịch Tây Nguyên còn triển khai 3 trạm cấp phát xăng dầu với trữ lượng từ 35 tấn đến 50 tấn mỗi trạm. Khi chiến dịch phát triển sang truy kích địch rút chạy trên Đường 7 và Đường 21, hậu cần chiến dịch đã giao nhiệm vụ cho 2 Cụm hậu cần K10B và K20B tổ chức lực lượng hậu cần cơ động bằng cơ giới vận chuyển vật chất, vũ khí, đạn dược và lực lượng quân y bám theo đội hình các đơn vị truy kích địch rút chạy để bảo đảm kịp thời. Bảo đảm hậu cần cho các lực lượng chiến đấu trên hướng phối hợp Bắc Tây Nguyên, Hậu cần Chiến dịch giao nhiệm vụ cho các binh trạm hậu phương của Mặt trận Tây Nguyên đảm nhiệm.
Do có công tác chuẩn bị từ 2 năm trước và được sự chi viện lớn của hậu phương chiến lược, Hậu cần Mặt trận Tây Nguyên đã dự trữ được 10.603 tấn, trong đó có 2.824 tấn đạn, 1.421 tấn xăng dầu, 6.289 tấn hàng quân nhu, với lương thực, thực phẩm đủ bảo đảm cho lực lượng toàn mặt trận trong 5 đến 6 tháng. Lực lượng quân y được bố trí sử dụng tương đối hợp lý, phân tuyến rõ ràng, ở tuyến sư đoàn và chiến dịch sử dụng vận tải cơ giới là chủ yếu, nên thương binh từ mặt trận được chuyển về kịp thời, nhất là thương binh nặng, công tác tổ chức cứu chữa có nhiều thuận lợi. Công tác bảo đảm sinh hoạt và sức khỏe cho bộ đội khá tốt do được bảo đảm đầy đủ lương thực, thực phẩm và rau xanh, sức khỏe của lực lượng tham gia chiến dịch đạt 97%. Mặc dù các phương tiện kỹ thuật hoạt động với tần suất cao và trên chiến trường rừng núi tỷ lệ hư hỏng nhiều, song trong quá trình chiến đấu, hậu cần chiến dịch đã tổ chức lực lượng sửa chữa cơ động tới các trận địa pháo, các khu vực tập trung xe để sửa chữa tại chỗ và các đội sửa chữa cơ động theo đội hình vận tải, hành quân để sửa chữa kịp thời. Nhờ vậy, hệ số kỹ thuật xe luôn đạt hệ số 75%; súng pháo bảo đảm hệ số 100%.
Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã giành thắng lợi to lớn, ta đã tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên, tạo nên bước ngoặt quyết định, mở ra thời cơ tổng tiến công chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đại tá ĐỖ ĐẮC YÊN