Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm một đơn vị thuộc Sư đoàn Quân Tiên Phong đang diễn tập chiến thuật đầu năm 1958. Ảnh tư liệu

Theo kế hoạch ban đầu, Đại đoàn 308 sẽ dùng toàn lực ba trung đoàn tấn công tiêu diệt Cốc Xá, nhưng do Sác-tông đã đến 477, nên Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định chuyển phần lớn lực lượng sang bao vây 477, lực lượng ở Cốc Xá chỉ còn lại 3 tiểu đoàn do Trung đoàn trưởng Hồng Sơn chỉ huy. Hồng Sơn sử dụng Tiểu đoàn 11 độc lập cắt đứt con đường độc đạo từ Cốc Xá sang 477, Tiểu đoàn 154 (Trung đoàn 209) tấn công từ phía bắc xuống. Hồng Sơn quyết định đánh một đòn hiểm, giao cho Tiểu đoàn 89 (Trung đoàn 36) do tiểu đoàn trưởng Sơn Mã chỉ huy dùng Đại đội 395 bí mật vượt lên đỉnh núi đá, giáng một đòn từ trên cao xuống khu trung tâm quân địch. Đêm tối, mưa trơn, các chiến sĩ Đại đội 395 bám vách đá cheo leo, trèo lên tới đỉnh núi thì trời đã sáng. 6 giờ sáng ngày 6-10-1950, Trung đoàn trưởng Hồng Sơn ra lệnh tấn công. Đại đội 395 bất ngờ từ đỉnh núi liên tiếp lao đạn cối 60 và ném lựu đạn xuống giữa đội hình Tiểu đoàn 1 Ta-bo đang tập trung đông đặc bên dưới. Lính Ma-rốc hoảng loạn bỏ hàng ngũ chạy xuống thung lũng. Tại đây, Tiểu đoàn 154 (Trung đoàn 209) đang chờ chúng. Lơ Pa-giơ ra lệnh cho Tiểu đoàn 1 chạy vào con đường độc đạo. Tiểu đoàn 11 của ta đang chờ chúng ở đây. Hơn 10 khẩu trung liên của Tiểu đoàn 11 nhả đạn nhưng địch vẫn không ngừng lao ra vì ở phía trong chúng đang bị Đại đội 395 “oanh tạc” từ trên cao xuống. Lơ Pa-giơ trà trộn trong đám tàn quân chạy ra khỏi Cốc Xá, nhưng đến chiều 8-10, toàn bộ bọn chúng bị một bộ phận của Trung đoàn 88 do Đại đội trưởng Trần Đăng Khiêm chỉ huy bắt gọn ở Nà Cao.

Cũng từ 6 giờ sáng ngày 6-10-1950, tất cả các vị trí của Sác-tông ở 477 đều bị tấn công. Lực lượng của ta gồm 5 Tiểu đoàn: 23, 18, 29 của Đại đoàn 308 và 130, 166 của Trung đoàn 209. Từ sáng đến trưa, Sác-tông đốc thúc binh lính với sự yểm hộ của 6 máy bay “cổ ngỗng” khu trục cố giành lại mấy mỏm núi đất để mở đường chạy về Thất Khê. Đến trưa, chúng chiếm được 2 mỏm, còn mỏm 500 quan trọng nhất vẫn nằm trong tay Đại đội 261 của Tiểu đoàn 18. Sác-tông đang bối rối thì đám tàn quân của Lơ Pa-giơ thoát chết từ Cốc Xá chạy sang, đem đến cho quân lính Sác-tông nỗi kinh hoàng khiếp đảm. 4 giờ chiều, điểm cao 477 trở nên rối loạn. Sác-tông biết tình hình đã trở nên nguy ngập, y thu thập vài trăm lính hy vọng chạy về Nà Cao nhưng khi y quay lại thì binh lính đã bỏ trốn hết. Sác-tông cùng với một số sĩ quan tham mưu lặng lẽ luồn rừng nhưng tới đâu cũng gặp người, phần lớn là dân công. Phát hiện thấy dấu giày, các cô dân công gọi bộ đội đến, còn các cấp dưỡng thì giơ nắm cơm nắm trên đầu gậy gọi địch ra hàng. Đại đội 263 (Tiểu đoàn 18, Trung đoàn 102) đang phối thuộc với Trung đoàn 88 ở Bản Ca vội vã lao tới. Các chiến sĩ sục vào rừng, người đầu tiên phát hiện ra Sác-tông là chiến sĩ Nguyễn Văn Hãn thuộc Tiểu đội 2 (Trung đội 3, Đại đội 26, Tiểu đoàn 18). Trong số địch bị bắt có cả tên Hai Thu, tỉnh trưởng Cao Bằng.

Ngày 8-10-1950, cả hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác-tông bị xóa sổ. Các đơn vị toàn Mặt trận nhận được thư khen của Bác Hồ: “Các chú không quản nhọc mệt, đói rét, chỉ ra sức thi đua giết giặc, các chú đã đánh tan đoàn quân tinh nhuệ của địch… Bác và Tổng tư lệnh đã ra lệnh khao các chú một bữa thịt bò. Bác hôn tất cả các chú”.

Để cứu các binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác-tông, từ ngày 7-10, địch đưa cánh quân Đờ La Bôm từ Thất Khê lên đón, nhưng ngày 8-10, cánh quân này đã bị Trung đoàn 88 đánh thiệt hại nặng phải rút trở về Thất Khê. Đại đoàn 308 và Trung đoàn 209 được lệnh chuyển xuống bao vây tiến công Thất Khê, cắt đường rút quân của địch về phía nam. Ngày 9-10, Tiểu đoàn 79 (Trung đoàn 102) tiêu diệt đồn Bản Ne ngoại vi Thất Khê. Công binh đại đoàn vòng xuống phía nam Thất Khê phá cầu Bản Trại trên sông Kỳ Cùng. Đêm 10-10-1950, địch bỏ Thất Khê rút chạy. Quân ta truy kích nhưng đến chậm, bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt địch. Như một phản ứng dây chuyền, từ ngày 13 đến 23-10-1950, quân Pháp rút khỏi Na Sầm, Đồng Đăng, thị xã Lạng Sơn, Đình Lập, An Châu. Cả một khu vực dọc biên giới dài 400km từ Cao Bằng đến sát Tiên Yên được giải phóng.

Chiến dịch Biên Giới thắng lợi vượt mức dự kiến. Chiến trường vừa im tiếng súng, Đại đoàn 308 có vinh dự được đón Bác Hồ tới thăm tại Thất Khê mới giải phóng. Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ chuẩn bị đón Chủ tịch nước theo đúng nghi thức. Nhưng Bác từ phía sau đến. Những hàng quân cuối đội hình thấy Bác, cất tiếng hoan hô vang dội. Các hàng quân phía trước quay lại cũng reo hò. Bác đi đến đâu là tiếng hò reo nổi lên như sấm. Nghi thức đón tiếp bị phá vỡ. Bác ra hiệu cho bộ đội quây quần quanh Bác. Bác khen ngợi Đại đoàn đã chiến đấu dũng cảm, vượt nhiều khó khăn gian khổ, đánh giỏi, thắng to. Bác ôm hôn Trung đoàn trưởng Thái Dũng, ai ai cũng thấy đó là cái hôn Bác dành cho tất cả mọi người. Bác ân cần dặn cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn chớ vì thắng lợi mà chủ quan khinh địch, phải luôn cố gắng để khi “Bác bảo đi là đi, Bác bảo đánh là thắng”.

Ngày về lịch sử

Sư đoàn Quân Tiên Phong làm lễ chào cờ sau khi tiếp quản Thủ đô. Ảnh tư liệu

Đối với cả nước, ngày 10-10-1954 là ngày Giải phóng Thủ đô, đối với Đại đoàn 308, đó là Ngày về lịch sử.

Đại đoàn 308 tiến vào giải phóng Thủ đô không phải tổ chức tấn công như Quang Trung đại phá quân Thanh tại Thăng Long thuở trước, hoặc như quân và dân ta phải Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Đó là vì cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, quân và dân ta thắng rất to ở Điện Biên Phủ: “Chín năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” (thơ Tố Hữu) đưa đến kết quả Giải phóng Thủ đô và giải phóng toàn miền Bắc.

Không đánh vào Thủ đô mà giải phóng Thủ đô, đó là thành tựu kỳ diệu của sự chỉ đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bởi vậy, cuộc tiến quân vào giải phóng Thủ đô của Đại đoàn 308 là một cuộc tiếp quản tưng bừng: “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về” (ca khúc của Văn Cao).

Đại đoàn 308 có vinh dự đặc biệt được Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh giao cho trọng trách tiếp quản Thủ đô. Đại đoàn là binh đoàn chủ lực cơ động đầu tiên của quân đội ta, được mang tên Quân Tiên Phong. Đại đoàn là một trong những đơn vị lừng lẫy chiến công “đã đánh là thắng, đã đánh là quyết định chiến trường”. Đại đoàn 308 gắn bó với Thủ đô do ước hẹn một lời thề. Trong đội hình của Đại đoàn, có Trung đoàn Thủ Đô, con đẻ của cuộc chiến đấu “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” của Hà Nội hồi đầu kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp, cách đây hơn nửa thế kỷ.

Thủ đô ta trong lịch sử ngàn năm Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội đã bao lần phải chiến đấu chống ngoại xâm, trong đó Hà Nội năm 1946 đã trở nên một điều thần kỳ, một huyền thoại. Trong lịch sử các cuộc chiến tranh cách mạng, chưa có trường hợp nào một lực lượng vũ trang non yếu có thể đương đầu nổi với một quân đội chính quy trên địa hình thành phố. Thế nhưng quân và dân Hà Nội năm 1946 đã đương đầu thắng lợi, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận, kìm chân giam giữ một lực lượng quan trọng quân chính quy Pháp khoảng 6.500 tên trong suốt 2 tháng, vượt gấp đôi thời gian quy định, tạo điều kiện cho cả nước chuyển vào chiến tranh. Chiến thắng của Hà Nội năm 1946 là chiến công lớn đầu tiên, khởi đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp, đem đến niềm tin tất thắng, có tác dụng cổ vũ quân dân cả nước.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Trung đoàn Thủ Đô đã thực hiện một cuộc rút lui thần kỳ bảo toàn lực lượng để kháng chiến lâu dài. “Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa, cả thành đô nghi ngút cháy sau lưng” (thơ Chính Hữu). Các chiến sĩ Thủ đô ra đi hẹn một “ngày về” và ngày đó đã tới: 10-10-1954.

Từ ngày hôm trước, các thủ tục bàn giao giữa quân đội ta và quân đội Pháp đã được các phân đội tiền trạm tiến hành xong ở tất cả các địa điểm. Quân đội viễn chinh Pháp đã làm lễ hạ cờ và những người lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Thủ đô.

Ngày 10-10, đại quân ta tiến vào. 8 giờ sáng, các đơn vị trong Đại đoàn 308 quân phục chỉnh tề, huy hiệu “Chiến sĩ Điện Biên Phủ” cài trên ngực áo, trở về trong lòng nhân dân Hà Nội, giữa một rừng cờ hoa, trong sự đón mừng nồng nhiệt của đồng bào.

Anh hùng Nguyễn Quốc Trị, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thủ Đô và một đoàn cán bộ Hà Nội dẫn đầu đội hình bộ binh tiến từ khu vực Quần Ngựa qua Ô Cầu Giấy, Kim Mã, Hàng Đẫy, vườn hoa Cửa Nam, Hàng Bông, Hàng Gai ra Bờ Hồ. Từ phía nam, một đội hình bộ binh khác gồm Trung đoàn Tu Vũ, Trung đoàn Bắc Bắc tiến từ Việt Nam Học Xá qua Bạch Mai, vòng về khu vực Đồn Thủy.

Tiến sau đội hình bộ binh là đội hình cơ giới. Hơn 100 xe Mô-lô-tô-va nước sơn màu lá mạ còn mới tinh khôi, cánh cửa in phù hiệu sao vàng trên nền đỏ, nối đuôi nhau tiến vào nội thành. Trên xe, các chiến sĩ ngồi ngay ngắn, súng dựng trên sàn, lưỡi lê tuốt trần sáng loáng.

Dẫn đầu đội hình cơ giới là một đoàn xe com-măng-ca mui trần. Trên xe đầu tiên, Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308, Chủ tịch Ủy ban quân chính Thành phố giơ tay chào đồng bào. Tiếp theo đó là xe của bác sĩ Trần Duy Hưng, Phó chủ tịch Ủy ban quân chính, rồi đến xe của các đồng chí trong Bộ tư lệnh Đại đoàn: Chính ủy Song Hào, Đại đoàn phó Vũ Yên.

Sau đoàn Mô-lô-tô-va chở bộ binh là đội hình pháo binh. Những khẩu đội sơn pháo “voi gầm Sông Lô”, những khẩu đội lựu pháo đã giáng sấm sét xuống đầu đội quân Đờ Cát tại Điện Biên Phủ, những khẩu đội pháo cao xạ nòng súng vươn thẳng trời cao với các chiến sĩ ngồi nghiêm trang trên mâm pháo.

Đoàn quân đi đến đâu là tiếng reo hò nổi lên như sấm dậy. Đường phố rực bóng cờ, chật ních người. Những gương mặt rạng rỡ, nụ cười, ánh mắt, tay vẫy, những giọt lệ. Quân và dân gặp nhau như những người thân lâu ngày gặp lại. Đoàn quân như ngây ngất xúc động trước sự đón mừng của đồng bào. Còn đồng bào thì không ngớt lời khen ngợi: Bộ đội Cụ Hồ trẻ quá, hiền quá, đẹp quá!

Buổi chiều 10-10-1954 là lễ chào cờ lịch sử. Đại đoàn 308 có vinh dự thay mặt cho cả nước kéo lá cờ chiến thắng của Tổ quốc lên đỉnh cột cờ của Thủ đô giải phóng.

15 giờ, còi Nhà hát Lớn nổi một hồi dài. Toàn thành phố hướng về thành Hoàng Diệu. Trên sân Cột cờ, các đơn vị bộ binh, pháo binh, thông tin, công binh, cơ giới tập hợp thành khối vuông nghiêm chỉnh. Đứng chủ lễ chào cờ là Thiếu tướng Vương Thừa Vũ và bác sĩ Trần Duy Hưng. Đoàn nhạc binh do nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên chỉ huy cử quốc thiều. Trên đỉnh cột cờ, quốc kỳ tung bay trước gió. Trời thu Hà Nội xanh ngăn ngắt, điểm một sắc cờ đỏ thắm tựa bông hoa. Trong niềm vui chiến thắng, bỗng chen một nỗi nhớ: Nhớ những người bạn chiến đấu không có mặt trong ngày về.

Nhớ Sư đoàn

Mỗi lần kỷ niệm thành lập Sư đoàn, trong tâm trí các cựu chiến binh chúng tôi bồi hồi bao kỷ niệm, bao nỗi nhớ-nhớ đồng đội, nhớ chiến trường, nhớ Sư đoàn 308 ruột thịt, nơi chúng tôi đã trưởng thành và chiến thắng.

Chúng tôi nghĩ rằng: "Thế hệ chúng tôi được Bác Hồ, người cha thân yêu của lực lượng vũ trang và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người anh cả của quân đội ta dìu dắt, chúng tôi đã làm tròn nhiệm vụ của thế hệ mình là cùng với toàn dân rửa cái nhục mất nước, giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc".

Thế hệ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 308 ngày nay hãy tiếp bước cha anh, phát huy truyền thống của Sư đoàn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong giai đoạn mới, cùng với toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, rửa cái nhục nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong muốn.

Các lính già đầu bạc của Sư đoàn 308 mỗi lần gặp mặt vẫn cất cao tiếng hát, ca vang bài ca truyền thống của Sư đoàn:

Quân Tiên Phong! Tiến lên! Tiến lên!

Phất cao lá cờ tiền phong tranh đấu!

Quân Tiên Phong, tiến lên, tiến lên!

Cất cao lá cờ truyền thống anh hùng.

Trung tướng Hồng Cư

Sư đoàn Quân Tiên Phong-Thuở ban đầu (Bài 1)