 |
Lễ thành lập Đại đoàn Quân Tiên Phong-Đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 28-8-1949. Ảnh: Website Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
|
Chúng tôi thuộc thế hệ đầu tiên của Sư đoàn 308 Quân Tiên Phong. Năm 1949, khi thành lập Đại đoàn, tôi là Phó trưởng phòng Chính trị. Danh hiệu "Quân Tiên Phong" luôn luôn là niềm tự hào, là tình cảm sâu nặng gắn bó các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cho đến tận ngày nay và mãi mãi mai sau. 28-8-2009 là ngày kỷ niệm 60 năm thành lập Sư đoàn. 60 năm ấy biết bao nhiêu tình, biết bao nhiêu kỷ niệm. Ở đây tôi xin kể mấy kỷ niệm khó quên về thuở ban đầu.
Danh hiệu "Quân Tiên Phong" xuất xứ từ đâu?
Trong quân đội ta, các đơn vị đều mang phiên hiệu bằng chữ số. Bên cạnh đó, một số đơn vị còn mang thêm danh hiệu chỉ rõ nơi xuất xứ và địa bàn hoạt động như: Sư đoàn Đồng bằng, Trung đoàn Bắc Bắc, Binh đoàn Cửu Long, Binh đoàn Tây Nguyên v.v.. Một số đơn vị mang danh hiệu những trận chiến thắng như Tiểu đoàn Bình Ca, Tiểu đoàn Bông Lau, Trung đoàn Tu Vũ, Trung đoàn Thủ đô, Trung đoàn Sông Lô…
Danh hiệu "Quân Tiên Phong" xuất xứ từ Nhật lệnh của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong ngày thành lập Đại đoàn 308 (28-8-1949): "Đại đoàn có nhiệm vụ cùng với các binh đoàn chủ lực khác đi tiên phong trên con đường tiêu diệt sinh lực địch, trên con đường chính quy hóa".
Đại đoàn phải: Hễ đánh là thắng
Đã đánh là tiêu diệt sinh lực địch
Ngày càng lớn mạnh
Quyết định chiến trường
Ngày 28-8-1949 đánh dấu sự ra đời của đại đoàn chủ lực đầu tiên, con chim đầu đàn, binh đoàn cơ động chiến lược đầu tiên của quân đội ta.
Lễ thành lập đại đoàn
60 năm đã trôi qua, đối với chúng tôi, những cựu chiến binh Sư đoàn 308 nay đã vào tuổi "xưa nay hiếm", nhiều sự việc đã rơi vào quên lãng. Tuy nhiên, quang cảnh hào hùng của ngày thành lập Đại đoàn vẫn in dấu ấn không phai mờ trong tâm trí chúng tôi.
Sáng 28-8-1949, tại Đồn Đu, huyện lỵ huyện Phú Lương nằm trên đường số 3 từ Thái Nguyên lên Bắc Kạn, quang cảnh nhộn nhịp khác thường. Từng đoàn người gồm đồng bào Kinh, Tày, Nùng, Dao, trang phục dân tộc sặc sỡ, nô nức kéo về phố huyện dự lễ thành lập Đại đoàn 308.
Qua phố huyện, xuất hiện một cổng chào uy nghi kết bằng lá và một bức tranh lớn do đồng chí Hồ Phương (sau này là thiếu tướng, nhà văn quân đội) vẽ: Hình ảnh một chiến sĩ tay cầm mác xung kích đứng trên bức tường thành rực lửa. Đó là biểu tượng của Đại đoàn 308 Quân Tiên Phong. Trên bãi cỏ rộng còn ướt sương đêm, bộ đội xếp hàng thành từng khối. Quân phục đủ loại nhưng thống nhất là chiếc mũ nan bọc vải có lưới cài lá ngụy trang. Chiếc mũ nan cài lá này đã trở thành biểu tượng của quân đội ta thời chống Pháp giống như chiếc mũ tai bèo của Quân Giải phóng miền Nam thời chống Mỹ. Đội quân nhạc do nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên chỉ huy đứng nghiêm trang với bộ kèn đồng sáng loáng. Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ trong bộ quân phục ka-ki quần chít ống, đi ủng, với một động tác đi nghiêm rất chuẩn đến trước lễ đài rút kiếm chào Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trần Đăng Ninh đại diện Chính phủ, mời hai đồng chí đi duyệt hàng quân.
Bước lên lễ đài, đồng chí Trần Đăng Ninh chuyển tới cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn lời khen của Bác Hồ và căn dặn đơn vị phải cố gắng phục vụ nhân dân, khiêm tốn học hỏi, khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ, xứng đáng với lòng tin cậy của Bác Hồ, Chính phủ và nhân dân.
Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đọc Nhật lệnh nêu rõ sự cần thiết phải thành lập Đại đoàn chủ lực đầu tiên và giao nhiệm vụ cho Đại đoàn. Lời Đại tướng như lời hịch của non sông làm chúng tôi vô cùng xúc động. Mãi mãi sau này, trong tâm trí chúng tôi vẫn âm vang chỉ thị của Đại tướng: "Đã đánh là thắng. Đã đánh là quyết định chiến trường". Đại tướng trao cho Tư lệnh Đại đoàn lá cờ Chiến thắng.
Lễ diễu binh bắt đầu. Âm thanh kèn đồng của đoàn quân nhạc vang lên hùng tráng. Đi đầu đội hình là đội quân kỳ gồm ba chiến sĩ cao lớn, người đi giữa giương cao lá cờ Chiến thắng, hai người cầm tiểu liên bảo vệ hai bên. Trung đoàn trưởng Vũ Yên dẫn đầu khối Trung đoàn Thủ đô. Trung đoàn trưởng Thái Dũng dẫn đầu khối Trung đoàn 88, anh giơ tay trái chào khi đi qua lễ đài (anh bị thương cụt tay phải trong trận Bản Pùm). Cuối cùng là đơn vị pháo binh. Những khẩu súng pháo thường vác trên vai của các chiến sĩ "chân đồng, vai sắt", hôm nay được ngựa kéo.
Buổi lễ thành lập Đại đoàn kết thúc trong không khí tràn đầy phấn khởi. Đây là một sự kiện lịch sử đầy ý nghĩa trong công cuộc xây dựng quân đội đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới: Giai đoạn tiến công và phản công tiến tới giành thắng lợi lớn.
Ra quân đánh thắng trận đầu
Trong chiến dịch Biên Giới Thu đông 1950, lần đầu tiên Đại đoàn 308 ra quân, tác chiến ở quy mô đại đoàn tập trung. Ngoài Đại đoàn 308 còn có 2 trung đoàn chủ lực thiện chiến của Bộ Tổng tư lệnh: Trung đoàn 174 (Cao Bắc Lạng) và Trung đoàn 209 (Sông Lô).
Sáng ngày 15-9-1950, tôi đang tham gia trực tại Sở chỉ huy Đại đoàn, bỗng có chuông điện thoại réo. Điều vui mừng khôn xiết đến với tôi là ở đầu dây bên kia, đồng chí trực ban tác chiến chiến dịch truyền đi bức thư của Bác Hồ gửi các đơn vị tham chiến. Tôi sung sướng báo cáo ngay với Đại đoàn trưởng kiêm Chính ủy Vương Thừa Vũ, sau đó bằng mọi cách: Điện thoại, liên lạc chạy chân, in li-tô, Phòng Chính trị kịp thời chuyển bức thư của Bác Hồ đến khắp các đơn vị toàn Đại đoàn. Nghe tin Bác Hồ đi chiến dịch và đọc thư Bác, mọi người như được tăng thêm sức mạnh, càng thấm sâu ý nghĩa trọng đại của chiến dịch, càng tin tưởng hăng hái quyết tâm bội phần.
Sau khi diệt Đông Khê, hai Trung đoàn 174 và 209 ém quân ngay tại chỗ sẵn sàng đánh quân nhảy dù. Đại đoàn 308 vẫn dàn thế trận ở nam Đông Khê đón đánh quân viện bằng đường bộ. Rồi cả một tuần lễ chờ đợi, không hề thấy một động tĩnh gì của địch. Càng háo hức lập công thì những ngày dài chờ địch càng căng thẳng. Gạo muối cạn dần, sức khỏe bộ đội giảm sút do nằm lâu trong rừng ẩm thấp, nhiều muỗi vắt, và do sốt ruột. Công tác lãnh đạo tư tưởng của Đại đoàn là "khắc phục khó khăn kiên trì chờ địch". Ngày 25-9-1950, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho Đại đoàn 308 và Trung đoàn 209 chuẩn bị đánh Thất Khê. Đại đoàn đưa hầu hết cán bộ cấp trưởng đi chuẩn bị chiến trường. Cán bộ chính trị dẫn hai phần ba quân số đi lĩnh gạo, chỉ còn những người yếu mệt ở lại lán trông coi vũ khí. Trận địa đánh viện của đại đoàn hầu như bỏ trống. Giữa lúc đó, Binh đoàn Lơ-pa-giơ lặng lẽ trườn qua trận địa phục kích của Đại đoàn. Đến trưa ngày 1-10-1950, Trung đoàn 209 phát hiện rất đông quân địch đến trước Đông Khê, bèn nổ súng chặn chúng lại.
Đại đoàn 308 thật có lỗi! Trong khi cán bộ cấp trưởng và hai phần ba bộ đội đi vắng, bộ phận ở lại mất cảnh giác, lơ là cảnh giới nên không phát hiện được quân địch đi qua trận địa ban đêm. Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ nghiêm khắc tự phê bình, nhận lỗi với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, rồi lập tức hạ lệnh cho các đơn vị dồn quân số lại, có bao nhiêu đánh bấy nhiêu, khẩn trương xuất phát đánh địch. Toàn mặt trận sôi động, cả người ốm cũng bật dậy cầm vũ khí. Các chiến sĩ nối nhau chạy ra đường số 4, mặc cho những chiếc máy bay "cổ ngỗng" lồng lộn bắn chặn. Tại các kho trạm, các chiến sĩ đi lấy gạo hối hả trở về, chạy suốt đêm để kịp tham gia chiến đấu.
Bộ phận gặp địch đầu tiên là Tiểu đoàn 29 (Trung đoàn 88), lực lượng dồn lại bằng một đại đội do Tiểu đoàn trưởng Hùng Sinh chỉ huy. Anh em lợi dụng rừng cây rậm rạp, bí mật tiếp cận, bất ngờ nổ súng xung phong đánh chiếm cao điểm Trọc Ngà. Trước sự xuất hiện đột ngột của bộ đội ta, quân địch đông gấp bội hoảng loạn chạy xuống chân đồi. Vừa lúc đó, Tiểu đoàn 18 (Trung đoàn 102) do Chính trị viên Hồng Long chỉ huy kịp thời đến phối hợp tác chiến. Trong vòng một tiếng đồng hồ, từ 16 giờ đến 17 giờ ngày 2-10-1950, một đại đội địch thuộc Trung đoàn bộ binh Ma-rốc số 8 bị tiêu diệt. Cùng ngày, Trung đoàn 36 do Trung đoàn trưởng Hồng Sơn chỉ huy tiến đánh dãy núi Khâu Luông do Tiểu đoàn 11 Ta-bo chiếm giữ. Lực lượng ta gồm Tiểu đoàn 80 và Tiểu đoàn 84 rút gọn bằng 2 đại đội, nhưng do Tiểu đoàn 84 đi lạc nên chỉ có Tiểu đoàn 80 tiến đánh. Quân địch đông, lợi dụng thế cao chống trả. Suốt đêm 2-10, các đợt xung phong của Tiểu đoàn 80 đều bị đẩy lùi. Trước tình hình đó, ngày 3-10-1950, Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ quyết định đưa Tiểu đoàn 89 và Tiểu đoàn độc lập 11 vào tham chiến. Dưới sự chi viện của pháo binh, các chiến sĩ ta vượt sườn núi dốc đánh giáp lá cà, chiếm từng mỏm núi. Lực lượng địch đã được tăng cường thêm Tiểu đoàn 1 dù ở nam Đông Khê rút về cũng không chống trả nổi, đến đêm 3-10, chúng bắt đầu rút khỏi Khâu Luông chạy về phía tây. Quân ta truy kích bắt một số tù binh, thu 4 khẩu pháo. Binh đoàn Lơ-pa-giơ đã bị giáng một đòn chí mạng ở Khâu Luông.
Trong lúc Binh đoàn Lơ-pa-giơ bị tấn công, ngày 3-10-1950, Binh đoàn Sác-tông bí mật rút khỏi thị xã Cao Bằng. Địch hành quân thận trọng, tới Nậm Nàng được lệnh bỏ lại xe pháo, đi vòng theo đường mòn Quang Liệt tìm cách hội quân với Binh đoàn Lơ-pa-giơ ở điểm cao 477.
Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tranh thủ thời gian tiêu diệt cánh quân Lơ-pa-giơ trước khi cánh quân Sác-tông đến 477, tích cực ngăn chặn làm chậm bước tiến của Sác-tông, tạo thời cơ để sau khi tiêu diệt xong cánh quân Lơ-pa-giơ thì chuyển sang tiêu diệt cánh quân Sác-tông. Đại đoàn 308 được tăng cường Tiểu đoàn 154 (Trung đoàn 209) và được giao nhiệm vụ tiêu diệt Binh đoàn Lơ-pa-giơ. Nhận lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ tổ chức lực lượng bao vây cánh quân Lơ-pa-giơ ở Cốc Xá. Cốc Xá cách Đông Khê 6km, về phía tây nam, là một thung lũng lòng chảo với núi đá tai mèo dốc đứng bao quanh. Hai tiểu đoàn của Lơ-pa-giơ và bộ phận tàn binh từ Khâu Luông chạy về dựa vào hang núi, lợi dụng mỏm đá bố trí phòng thủ nhiều tầng. Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ ra lệnh cho Trung đoàn trưởng Hồng Sơn chỉ huy 4 tiểu đoàn: 80 và 89 (Trung đoàn 36), Tiểu đoàn 11 độc lập, Tiểu đoàn 154 (Trung đoàn 209) đánh từ phía đông sang. Trung đoàn trưởng Vũ Yên chỉ huy Tiểu đoàn 54 (Trung đoàn 102) và Tiểu đoàn 29 (Trung đoàn 88) đánh từ phía bắc xuống. Trung đoàn trưởng Thái Dũng chỉ huy Tiểu đoàn 18 (Trung đoàn 102), Tiểu đoàn 23 (Trung đoàn 88) và Tiểu đoàn 84 (Trung đoàn 36) đánh từ phía nam lên. Đại đoàn phó Cao Văn Khánh chỉ huy trận đánh.
Đề phòng quân Sác-tông thọc vào lưng quân ta, Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ hạ lệnh trực tiếp cho Tiểu đoàn 29 (Trung đoàn 88) điều Đại đội Tô Văn, một đại đội chủ công thiện chiến vượt núi đá tai mèo đến chốt chặn ở Tân Bể. Cánh quân Sác-tông từ khi vào đường mòn Quang Liệt đã rơi vào “Hoa Dung tiểu lộ”, chúng phải phát cây tìm đường mòn cũ, hành quân rất chậm, lại bị một bộ phận của Trung đoàn 209 đánh phải bỏ đường mòn đi vòng lên đỉnh núi, đến Tân Bể lại vấp phải Đại đội Tô Văn, một lần nữa lại tìm đường vòng đi tiếp đến ngày 6-10-1950 mới tới điểm hội quân 477, binh lính mệt mỏi rã rời sau những ngày luồn lách. Nhưng không thấy Lơ-pa-giơ đâu hết. Sác-tông không biết cách đó 2 ngày, sau khi đến Cốc Xá, Lơ-pa-giơ đã cho Tiểu đoàn dù 1 tiến sang 477 nhưng không thể vượt qua nổi Tiểu đoàn 18 của ta chặn đường, buộc chúng phải quay lại Cốc Xá. Chỉ thị của Đại đoàn trưởng 308 không cho 2 cánh quân gặp nhau đã được Đại đội Tô Văn và Tiểu đoàn 18 thực hiện triệt để. Trong khi đó, từ 2 ngày nay, Binh đoàn Lơ-pa-giơ đã bị bao vây chặt tại Cốc Xá. Mấy lần Lơ-pa-giơ tổ chức phá vây để sang 477 hội quân với Sác-tông nhưng vô hiệu.
Trung tướng HỒNG CƯ
(Còn nữa)