QĐND Online - Đại đoàn 312 trước đây - Sư đoàn 312, Sư đoàn Chiến thắng ngày nay- là sư đoàn bộ binh chủ lực, cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam, thành lập ngày 27 tháng 12 năm 1950 tại Kim Lăng (Phú Thọ).

Ngay từ khi ra đời, đội hình của Đại đoàn đã bao gồm nhiều đơn vị từng lập chiến công oanh liệt trên các chiến trường Việt Bắc, Tây Bắc, Trung Du và đồng bằng Bắc Bộ.

Trung đoàn 209 - đơn vị nòng cốt thành lập Đại đoàn - từng hai lần chiến thắng giặc Pháp trên sông Lô vào năm 1947-1949, được tặng danh hiệu “Trung đoàn Sông Lô”. Trung đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Biên Giới với gương hy sinh anh dũng lấy thân mình lấp lỗ châu mai của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trần Cừ.

Trung đoàn 165 - Trung đoàn Lao Hà - chịu đựng và vượt qua muôn vàn gian khổ và thiếu thốn, bám dân, bám đất gây dựng cơ sở cách mạng, ba lần giải phóng Lào Cai, Hà Giang, được tặng danh hiệu “Trung đoàn Thành đồng Biên giới”.

Trung đoàn 141 - nòng cốt là tiểu đoàn 11 - đơn vị đánh địch trong công sự vững chắc đầu tiên ở Phủ Thông, được tặng danh hiệu “Tiểu đoàn Phủ Thông”. Trong chiến dịch Hòa Bình (1952), trung đoàn lập chiến công oanh liệt, tiêu diệt quân Pháp trên các điểm cao 400, 600 ở Ba Vì, được tặng danh hiệu “Trung đoàn Ba Vì”.

Ngay từ trận đầu ra quân trong chiến dịch Trung Du, Đại đoàn đã lập công xuất sắc, tiêu diệt một tiểu đoàn quân Âu Phi trong trận đánh vận động trên cánh đồng Xuân Trạch (Vĩnh Yên), đập tan cuộc hành quân “Chim Dẽ Giun” của quân Pháp, mở đầu trang sử chiến đấu và chiến thắng vẻ vang của Đại đoàn.

Chiến dịch Trung Du là chiến dịch đầu tiên Đại đoàn 312 chiến đấu tập trung, sử dụng lực lượng lớn xuất kích ban ngày, quần nhau với các binh đoàn cơ động tinh nhuệ của địch có máy bay và pháo binh yểm hộ. Chiến thắng giòn giã của Đại đoàn đã gây lòng tin trong cán bộ, chiến sĩ có thể đánh và đánh thắng quân tinh nhuệ của địch trên các loại địa hình. Qua chiến dịch Trung Du, cán bộ, chiến sĩ của Đại đoàn có thêm kinh nghiệm trong chiến đấu công kiên, vận động, đặc biệt là kinh nghiệm đánh công kiên ban ngày dưới phi pháo địch, trong khi viện binh địch có thể uy hiếp.

Sau chiến dịch, tờ báo “Anh Dũng” của Đại đoàn được lưu hành rộng rãi trong đơn vị, tên tờ báo tượng trưng cho truyền thống anh dũng tuyệt vời của cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312.

Từ trận đầu xuất quân, chiến dịch đầu thử lửa và chiến thắng giòn giã trên chiến trường Trung Du, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312 càng thêm tin tưởng, phấn khởi bước vào những chiến dịch mới.

Trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám trên chiến trường Đông Bắc, Đại đoàn 312 được Bộ giao nhiệm vụ đi cùng Đại đoàn 308 chiến đấu ở chiến trường chính làm nhiệm vụ dự bị, đợi đánh viện binh địch. Trong các trận đánh cuối xuân 1951 của chiến dịch này, Đại đoàn tuy không giành được thắng lợi giòn giã, nhưng đã góp phần rèn luyện khả năng cơ động, nâng cao trình độ tác chiến tập trung của Đại đoàn. Qua chiến dịch này, cán bộ chỉ huy các cấp học tập được nhiều kinh nghiệm về sử dụng binh lực, bảo đảm cơ động và bảo đảm cung cấp trên một chiến trường xa hậu phương, đánh với đối tượng địch có khả năng cơ động cao, hỏa lực phi pháo mạnh.

Ngày 3/9/1951, Đại đoàn 312 nhận nhiệm vụ lên Tây Bắc mở chiến dịch mang tên “Lý Thường Kiệt”. Trong chiến dịch này, Đại đoàn đã đánh 9 trận, tiêu diệt 430 tên địch, làm bị thương gần 400 tên, bắt 200 tên. So với yêu cầu tiêu diệt địch trong chiến dịch, Đại đoàn hoàn thành nhiệm vụ, nhưng thương vong tương đối cao. Tuy nhiên, qua chiến dịch này, sức chiến đấu của Đại đoàn đã được nâng cao; tinh thần chấp hành mệnh lệnh, kỷ luật tác chiến hiệp đồng, phối hợp giữa bộ binh và các binh chủng trong chiến đấu của các đơn vị được đề cao.

Sau chiến dịch Tây Bắc, Đại đoàn lại được giao nhiệm vụ tham gia trong cả 3 đợt của chiến dịch Hòa Bình. Trong 3 tháng liên tục chiến đấu, Đại đoàn đã đánh 7 trận lớn, tiêu diệt 2.235 tên địch, bắt 320 tên, thu và phá hủy nhiều quân trang, quân dụng của địch.

Chiến dịch Hòa Bình là một chiến dịch lớn, địa bàn hoạt động rộng, thời gian chiến đấu dài. Trong hoàn cảnh gay go, khó khăn, ác liệt, được nhân dân tích cực giúp đỡ, nhiều đơn vị của Đại đoàn đã vượt sông an toàn, bí mật tiến sâu vào lòng địch, có những cách đánh sáng tạo, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật nên đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch.

Qua chiến dịch, cán bộ Đại đoàn có thêm nhiều kinh nghiệm chỉ huy đánh công kiên, đánh vận động phục kích, xử trí các tình huống. Trình độ hiệp đồng tác chiến của các đơn vị trong Đại đoàn và các đơn vị bạn được nâng cao. Những biểu hiện sinh động “Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng” được hình thành ngay từ trận đầu Đại đoàn ra quân, trải qua thử thách, qua các chiến dịch gian khổ và quyết thắng, đến chiến dịch Hòa Bình càng được tôi luyện trở thành bản chất truyền thống của Đại đoàn.

Sau khi tổng kết rút kinh nghiệm chiến đấu trong chiến dịch Hòa Bình và đón nhận 2 phần thưởng cao quý: Huân chương Quân công hạng Hai của Tổng Quân ủy và lá cờ “Gìn giữ non sông” của kiều bào ta gửi tặng, Đại đoàn bước vào chỉnh huấn mùa hè 1952, đồng thời chuẩn bị tham gia các chiến dịch trên chiến trường Tây Bắc và Thượng Lào.

Trong chiến dịch Tây Bắc (1952), Đại đoàn 312 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, tiêu diệt hơn 4.000 tên địch, thu nhiều vũ khí. Đại đoàn đã trưởng thành trong đánh công kiên và đánh vận động tiến công liên tục. Các đơn vị của Đại đoàn đã vận dụng thành công nghệ thuật đánh thọc sâu, truy kích, kết hợp với địch vận và vận động nhân dân đấu tranh bằng nhiều hình thức, nên hiệu suất chiến đấu cao. Nhiều gương chiến đấu dũng cảm, kiên cường, mưu trí xuất hiện.

Trong chiến dịch Thượng Lào - chiến dịch truy kích địch đường dài lớn nhất của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp-, sau chặng đường hành quân hơn 300km, các đơn vị của Đại đoàn 312 lại bước ngay vào đuổi địch suốt 7 ngày đêm liên tục trên đoạn đường dài 270km từ Sầm Nưa tới Xiêng Khoảng. Đây quả là một thử thách lớn đối với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn.

Chiến dịch Thượng Lào kết thúc bằng việc 3 tiểu đoàn và 11 đại đội địch bị tiêu diệt. Liên quân Lào-Việt đã diệt và bắt gần hết số quân địch chạy khỏi Sầm Nưa. Toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và Phong xa lì với hơn 30 vạn dân được giải phóng. Căn cứ kháng chiến của cách mạng Lào được mở rộng, nối liền với căn cứ cách mạng của Việt Nam.

Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào là thắng lợi của tình đoàn kết quốc tế cao cả, của tinh thần liên minh chiến đấu giữa hai quân đội Việt-Lào.

Đại đoàn 312 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát huy truyền thống “Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng”.

Sau cuộc vận động rèn cán, chỉnh quân chuẩn bị bước vào cuộc tiến công chiến lược đông-xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn càng thêm phấn khởi, tin tưởng sẵn sàng bước vào nhiệm vụ chiến đấu mới.

Giữa tháng 12/1953, Đại đoàn 312 nhận lệnh hành quân lên Tây Bắc. Sau gần một tháng trời hành quân trong mưa gió rét buốt, lại bị địch đánh phá liên tục chặn đường, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312 đã vượt qua hơn 500km đến vị trí tập kết ở khu vực kilômét 15 đường Tuần Giáo-Điện Biên an toàn. Vượt qua thử thách này, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn được rèn luyện và càng thêm tin tưởng ở chiến thắng.

Ngày 13/3/1954, quân ta mở cuộc tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đại đoàn 312 vinh dự được giao nhiệm vụ đánh trận mở màn: tiêu diệt cứ điểm Him Lam. Đại đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: sau một cuộc tiến công mãnh liệt, cứ điểm Him Lam bị xóa sổ. 300 tên địch bị diệt, 200 tên bị bắt làm tù binh, thu toàn bộ vũ khí, trang bị của địch.

Trận Him Lam thắng giòn giã làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận Điện Biên Phủ. Trận đầu ra quân thắng lợi lớn đối với Đại đoàn 312 có ý nghĩa to lớn, tạo nên niềm tin tưởng và sức chiến đấu mới cho bộ đội. Trận Him Lam chứng tỏ khả năng hiệp đồng tác chiến đánh cứ điểm kiên cố của chủ lực ta đã có những tiến bộ quan trọng cả về kỹ thuật, chiến thuật, về tổ chức chỉ huy tác chiến hiệp đồng, tạo tiền đề thắng lợi cho những trận đánh tiếp theo.

Ngay sau chiến thắng Him Lam, Đại đoàn lại phối hợp tác chiến với Đại đoàn 308 tiêu diệt cứ điểm Độc Lập. Tiếp đó, trong các trận đánh vào trung tâm Mường Thanh, Đại đoàn vẫn là lực lượng tiến công trên hướng chủ yếu.

Trong các trận đánh ác liệt và kéo dài này, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312 đã luôn nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, đạp bằng mọi khó khăn, thử thách tưởng chừng như không thể vượt qua nổi, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể, cùng các đơn vị bạn trên toàn mặt trận, thực hiện đánh công kiên, đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn; từ đột phá các cứ điểm đơn lẻ với lực lượng ít, thời gian dài, cho đến tiến công vào tập đoàn cứ điểm bố phòng kiên cố, phức tạp của địch, bộ đội ta đã vận dụng linh hoạt các hình thức, thủ đoạn tác chiến vây lấn kết hợp với đột phá, tiến công chính diện kết hợp với vu hồi sau lưng, bên sườn, thọc sâu, luồn sâu… linh hoạt và có hiệu quả. Cuối cùng, bằng một cuộc tiến công dũng mãnh, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312 đã đánh thẳng vào Sở chỉ huy địch ở trung tâm Mường Thanh, bắt sống tướng Đờ Cát-xtơ-ri và toàn bộ Bộ Tham mưu tập đoàn cứ điểm.

Tổng cộng, trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Đại đoàn 312 đã tham gia đánh 20 trận lớn, tiêu diệt 17 đại đội địch, bắt sống hơn 4.000 tù binh, góp phần cùng các đơn vị bạn tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giáng đòn quyết định, đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, tạo ra bước chuyển biến lớn trong cục diên quân sự và chính trị ở Đông Dương.

Đối với Đại đoàn 312, chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của ý chí kiên cường, quyết tâm chiến đấu vượt qua muôn vàn hy sinh gian khổ của cán bộ, chiến sĩ; là thắng lợi của công tác tổ chức xây dựng lực lượng, huấn luyện, rèn luyện bộ đội trong những điều kiện vô cùng khó khăn, ác liệt. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về trình độ lãnh đạo chỉ huy, trình độ kỹ thuật, chiến thuật và khả năng tác chiến hiệp đồng của các đơn vị.

Sự trưởng thành vượt bậc cùng với những chiến công xuất sắc của Đại đoàn gắn liền với những tấm gương chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của các anh hùng, chiến sĩ thi đua toàn quân, toàn quốc như: Phan Đình Giót, Trần Can, Nguyễn Văn Thuần, Đinh Văn Mẫu, Chu Viết Sòi, Trần Văn Chơ…; với những tập thể dũng sĩ kiên cường trên trận địa phòng ngự đồi 75, tiểu đội thọc sâu Trần Ngọc Doãn, tổ chiến đấu Luật-Vinh-Nhỏ.

Với chiến công xuất sắc đó, ngày 13/5/1954, trong lễ duyệt binh của các đơn vị chiến thắng Điện Biên Phủ được tổ chức trọng thể ngay trên cánh đồng Mường Thanh, Đại đoàn 312 vinh dự được nhận vĩnh viễn cờ thưởng luân lưu “Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bốn năm trôi qua, kể từ trận đầu ra quân chiến thắng vẻ vang ở Liễn Sơn - Xuân Trạch, bước chân những người lính Đại đoàn Chiến thắng đã in dấu trên khắp các chiến trường Trung Du, Việt Bắc, Tây Bắc. Phát huy truyền thống “Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng”, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, Đại đoàn Chiến thắng đã vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành.

Từ chỗ cả Đại đoàn chỉ có ba tiểu đoàn đánh công kiên được, đến chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại đoàn đã có 9 tiểu đoàn đánh công kiên khá. Từ chỗ phân tán đánh nhỏ lẻ, diệt các đồn bốt do các trung đội, đại đội địch đóng giữ, Đại đoàn đã tiến lên đánh tập trung, đánh lớn, đột phá những cứ điểm kiên cố của địch ở Him Lam, Độc Lập, tiêu diệt cả tiểu đoàn địch.

Thời gian bốn năm vừa chiến đấu vừa xây dựng chưa dài. Nhưng các chiến sĩ Đại đoàn Chiến thắng đã tham gia 7 chiến dịch, đánh 84 trận lớn, tiêu diệt 6.513 tên, bắt 6.835 tên địch. Nhiều trận đánh như Xuân Trạch, Núi Đanh, Ninh Mít, Ba Vì, Him Lam, Độc Lập, Mường Thanh cùng tên tuổi các anh hùng liệt sĩ Trần Cừ, Trần Can, Phan Đình Giót đã đi vào lịch sử kháng chiến hào hùng của dân tộc.

Trong cuộc chiến đấu trường kỳ đầy gian khổ và hy sinh, Đại đoàn đã rèn luyện được một đội ngũ cán bộ, chiến sĩ dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, đoàn kết trên dưới một lòng, tự phê bình và phê bình nghiêm khắc, thắng không kiêu, bại không nản. Trước mọi thử thách ác liệt, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn luôn bình tĩnh, mưu trí, linh hoạt, chiến đấu anh dũng và chiến thắng oanh liệt. Nhiều cán bộ, chiến sĩ ưu tú của Đại đoàn đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ quốc. Nhiều đồng chí qua rèn luyện thử thách ác liệt đã trưởng thành. Có 5 đồng chí đã trở thành anh hùng lực lượng vũ trang, 7 đồng chí trở thành Chiến sĩ thi đua toàn quân và toàn quốc. Đại đoàn vinh dự được nhận nhiều cờ thưởng, nhiều Huân chương Quân công và Chiến công cho tập thể, cán bộ và chiến sĩ. Những phần thưởng cao quý đó ghi nhận những đóng góp lớn lao của cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312 trong cuộc chiến đấu đã qua, cổ vũ và thôi thúc Đại đoàn vươn lên phát huy truyền thống “Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng” trong thời kỳ mới.

Phát huy truyền thống vừa xây dựng vừa chiến đấu, sau chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại đoàn đã cùng với toàn quân tiến lên xây dựng huấn luyện chính quy, hiện đại theo phương hướng cơ bản, hệ thống, toàn diện, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam.

Cùng với các Đại đoàn chủ lực thuộc Bộ, Đại đoàn 312 tiến hành chấn chỉnh tổ chức lại các đơn vị theo biên chế thống nhất của toàn quân. Tháng 6/1955, Đại đoàn 312 đổi tên thành Sư đoàn 312 với biên chế gồm 3 trung đoàn bộ binh 141, 165, 209 và các tiểu đoàn, đại đội trực thuộc.

Có thể nói, hướng về miền Nam, huấn luyện sát với thực tế chiến trường, sẵn sàng vào Nam chiến đấu đã trở thành yêu cầu, nguyện vọng tha thiết của mỗi cán bộ, chiến sĩ ở các đơn vị trong quân đội ta nói chung và của Sư đoàn 312 nói riêng trong những năm cuối 1950, đầu những năm 1960. Trong khí thế khẩn trương xây dựng của toàn quân, cán bộ và chiến sĩ Sư đoàn 312 nỗ lực phấn đấu đẩy mạnh công cuộc xây dựng đơn vị tiến lên chính quy, hiện đại và sẵn sàng chiến đấu cao.

Tháng 2/1963, Sư đoàn nhận lệnh cử một tiểu đoàn gồm 600 cán bộ, chiến sĩ thuộc trung đoàn 141 vào chiến trường Trị-Thiên. Đây là đơn vị đầu tiên của Sư đoàn từ Thái Nguyên vượt sông Bến Hải vào Nam. Đặt chân tới chiến trường, tiểu đoàn đánh trận đầu ở Chóp Chài, diệt 1 đại đội ngụy. Sau này, tiểu đoàn là lực lượng nòng cốt xây dựng trung đoàn Ba Gia ở Khu 5.

Trong 6 năm (1963-1968), Sư đoàn đã liên tiếp đưa 4 trung đoàn, 9 tiểu đoàn độc lập cùng nhiều cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Nhiều đơn vị của Sư đoàn khi vào Nam đã tham gia những trận chiến đấu mở đầu cao trào diệt Mỹ, diệt ngụy ở miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Từ một Sư đoàn 312, các đơn vị vào chiến trường đã tổ chức thành một sư đoàn hoàn chỉnh ở miền Đông Nam bộ (Sư đoàn 7), làm nòng cốt xây dựng một sư đoàn và một trung đoàn ở Quân khu 5 (Sư đoàn 3 và trung đoàn Ba Gia).

(còn nữa)

Đăng Vinh