QĐND - Vào cuối năm 1967, đầu năm 1968, cùng với nhiều phóng viên chiến trường, hai phóng viên của Phòng biên tập Quân sự (nay là Phòng biên tập Quốc phòng – An ninh) của Báo Quân đội nhân dân là Lê Đình Dư và Nguyễn Ngọc Nhu đã không quản gian khổ, hiểm nguy luôn bám sát đội hình chiến đấu của Trung đoàn 270 chốt giữ và đánh địch ở vùng Cửa Việt (Quảng Trị). Không chỉ tác nghiệp, chuyển về Tòa soạn những thông tin nóng hổi từ mặt trận, hai phóng viên còn trực tiếp chiến đấu, chia lửa với đồng đội và đã anh dũng ngã xuống trong tư thế của người chiến sĩ cầm bút, cầm súng. Sự hy sinh của các nhà báo đã để lại trong cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 270 niềm tiếc thương vô hạn và lòng cảm phục sâu sắc.
 |
Nhà báo Lê Đình Dư, nhà báo Ngọc Nhu và nhà báo Nguyễn Đức Toại tại Vĩnh Linh đầu năm 1968. Ảnh tư liệu
|
Nhân kỷ niệm 45 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, các thế hệ những người làm Báo Quân đội nhân dân nhớ lại tấm gương hy sinh của Liệt sĩ, Nhà báo Lê Đình Dư với niềm tự hào sâu sắc. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tá CCB Trần Văn Thà, nguyên Tiểu đoàn trưởng Bộ binh 47, Trung đoàn 270, kể về những giờ phút tác nghiệp, chiến đấu kiên cường, quả cảm của Nhà báo Lê Đình Dư. Thực sự đó là hình ảnh đẹp, mang tính biểu tượng người phóng viên quân đội-nhà báo, chiến sĩ mà các thế hệ những người làm báo quân đội hôm nay học tập và noi theo.
Lúc đó, Tiểu đoàn chúng tôi có nhiệm vụ chặn sự tiếp tế của Mỹ từ biển lên sông Cửa Việt – Đông Hà – Tà Cơn. Trước Tết Mậu Thân 10 ngày, do ta đánh quá hiểm vào “dạ dày” của hàng vạn quân Mỹ - ngụy ở Tà Cơn và Đông Hà nên địch phản ứng quyết liệt, dùng lực lượng lớn của Sư đoàn bộ binh 1 ngụy và một số tiểu đoàn của Mỹ, cố giải tỏa đường tiếp tế của chúng. Vì vậy các trận đánh càng ác liệt.
Ngay từ ngày 20-1-1968, trước các trận đánh tàu địch trên sông Cửa Việt, trung đoàn 2 – ngụy đưa quân ra giải tỏa. Suốt cả ngày, bộ đội ta dũng cảm giữ vững trận địa. Nhà báo Lê Đình Dư như con thoi chạy ra bờ sông chụp hình tàu giặc bốc cháy, chạy theo bộ đội xung phong đuổi giặc trên cánh đồng Lâm Xuân. Lúc nào tôi cũng thấy Lê Đình Dư theo sát bên mình. Cuối ngày 20-1-1968, địch rút chạy hết, Lê Đình Dư nói với tôi: “Anh Thà ạ, tôi chụp được cả cuộn phim quá đẹp về sự dũng cảm của bộ đội ta và tàu địch, xe tăng địch cháy, bộ binh địch chạy”. Tôi nói: “Vâng, bộ đội ta dũng cảm lắm, nhưng anh còn dũng cảm tuyệt vời hơn. Ngày mai, chắc chắn sẽ ác liệt hơn, anh cẩn thận giữ gìn các tư liệu vô giá mà anh đã có”.
Đêm 20 và ngày 21-1-1968, Mỹ dùng phi cơ, pháo tàu biển, pháo binh các nơi, bắn phá trận địa của tiểu đoàn. 7 giờ, ta bắn cháy 3 tàu địch trên sông Cửa Việt. Khoảng 8 giờ, từng đoàn xe tăng - thiết giáp, bộ binh địch tấn công trên toàn trận địa của tiểu đoàn. Đến 12 giờ, trận địa của ta vẫn giữ vững. Lợi dụng lúc yên tiếng súng, tôi nói với nhà báo Lê Đình Dư: “Đơn vị có nhiệm vụ bảo vệ anh và anh có nhiệm vụ bảo vệ những cuộn phim anh vừa chụp được. Theo ý tôi anh nên vào công sự và ở trong đó cho đến khi kết thúc trận đánh”. Anh Dư giơ khẩu AK cười rất tươi và khoe: “Tôi đã tự trang bị cho mình đủ vũ khí chiến đấu, anh ở đâu tôi ở đó”.
Địch dùng mọi loại vũ khí đánh vào trận địa, khói lửa mịt mù, thương binh tử sĩ của đơn vị tăng lên.
Khoảng 14 giờ, 2 đại đội địch cùng với xe tăng đột nhập vào làng Lâm Xuân Đông, tôi điều động lực lượng dự bị, đánh bật địch ra khỏi làng, nhìn lại thấy Lê Đình Dư bắn loạt đạn AK rồi đặt súng xuống, lấy máy ảnh ra chụp và nói với tôi “Hình anh đẹp lắm anh Thà ạ!”. Tôi rất lo cho anh Dư, vì anh có thể hy sinh hoặc có khi bị địch bắt thì nguy lắm. Tôi ra lệnh: “Đồng chí Dư vào công sự ngay”. Dư ngạc nhiên nhìn tôi. Tôi nghiêm giọng: “Đồng chí có biết thế nào là kỷ luật chiến trường không? Tôi là người chỉ huy cao nhất ở đây, đồng chí phải chấp hành ngay mệnh lệnh”. Lê Đình Dư nhìn tôi và từ tốn nói: “Anh Thà ạ, người chiến sĩ có thể đứng bắn, quỳ bắn, nằm bắn, còn các phóng viên quân đội chúng tôi chỉ có đứng thẳng trên chiến hào, dùng vũ khí là máy ảnh, bút máy của mình ghi chiến công của đồng đội và tội ác của quân thù. Vị trí của tôi là ở đây, anh ở đâu tôi ở đó”.
Bộ binh địch rút ra khỏi làng, 2 chiếc máy bay AD6 của Mỹ đến ném bom vào làng Lâm Xuân Đông, bị súng 12,7mm của ta bắn cháy 1 chiếc. Lê Đình Dư đứng thẳng đưa máy ảnh chụp chiếc máy bay đang cháy như bó đuốc. Pháo tàu biển của Mỹ bắn dữ dội vào làng Lâm Xuân Đông, đồng chí Đoàn Xuân Hiểu hô: “Nhà báo nằm xuống” thì một quả pháo trúng vào chỗ Lê Đình Dư đang đứng. Nhà báo Lê Đình Dư ngã xuống, chiếc máy ảnh vỡ nát, lúc đó vào khoảng 3 giờ chiều 21 tháng 1 năm 1968. Tôi đến với nhà báo Lê Đình Dư, chỉ còn lại ống kính máy ảnh.
Trước tình thế trên, khoảng 5 giờ chiều hôm đó, có ý kiến nhận định: Ta thương vong lớn, mất liên lạc với trên, không nhận được tiếp tế, đạn hết, địch mạnh, nay ta tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, nếu không ngày mai phiên hiệu của đơn vị sẽ mất!... Tôi dùng mọi lý lẽ để giữ bộ đội ở lại chiến đấu, nhưng đa số biểu quyết rút lui,… Rời khỏi vị trí để cùng rút lui với đơn vị, tôi quá đau xót và nghĩ ngay đến lời nói của Lê Đình Dư: “Phóng viên quân đội chúng tôi chỉ có đứng thẳng trên chiến hào”. Dư ơi, Thà lại cúi đầu rút chạy!... Không! Thà sẽ ở lại với Dư, tôi quyết định chạy nhanh lên phía trước, kêu to lên: “Anh em Tiểu đoàn 47 đứng lại”. Và anh em đã đứng lại quanh tôi.
Đứng lên trên cồn cát cao, tôi nói: “Thưa anh em, tôi là Trần Văn Thà, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 47, xin tạ tội với anh em. Tôi ra lệnh rút lui là sai lầm quá lớn, tôi xin lỗi anh em, chúng ta không có quyền rút lui khi nhiệm vụ chưa hoàn thành. Chúng ta quyết tử tại bờ sông Cửa Việt để Tổ quốc quyết sinh. Tôi kêu gọi anh em, ai tình nguyện hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ thì trở lại trận địa với tôi”. Tôi đi trước, anh em đi sau, đến làng Lâm Xuân Đông, tôi kiểm tra lại quân số, được hơn 100 tay súng. Việc đầu tiên là mai táng liệt sĩ, tự tay tôi đặt vào mộ Liệt sĩ Lê Đình Dư đoạn ống kính máy ảnh còn lại. Tiếp đến tôi động viên anh em tổ chức lại lực lượng, bố trí trận địa ở Hoàng Hà và bờ sông Cửa Việt.
Ngày 22-1-1968, chúng tôi đánh tàu, bộ binh địch ra giải tỏa và giành thắng lợi, giữ vững trận địa. Đánh địch liên tục 108 ngày đêm trên bờ sông Cửa Việt, với 98 trận, bắn cháy, bắn chìm 33 tàu địch, diệt 51 xe tăng thiết giáp, bắn rơi 5 máy bay, đánh thiệt hại 2 trung đoàn ngụy, 2 tiểu đoàn Mỹ, diệt 2.450 tên ngụy, 246 tên Mỹ, bắt nhiều tù binh.
Đến ngày nay, câu nói của Lê Đình Dư “Phóng viên quân đội chúng tôi chỉ có đứng thẳng trên chiến hào” vẫn còn mãi mãi trong tôi. Nhờ câu nói bất hủ ấy và hành động dũng cảm của Lê Đình Dư mà đơn vị chúng tôi đứng vững, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Thời gian đã lùi xa 45 năm, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 47, Trung đoàn 270 chúng tôi người còn người mất. Người ngã xuống trên chiến trường, người ra đi vì thương tật, tuổi tác đều mang theo hình ảnh đẹp đẽ của liệt sĩ nhà báo Lê Đình Dư. Tất cả cán bộ, chiến sĩ đơn vị chúng tôi đều mong muốn sự hy sinh anh dũng của nhà báo chiến sĩ Lê Đình Dư được ghi nhận và tôn vinh xứng đáng. Với chúng tôi, những người còn sống cứ đau đáu một nỗi niềm tri ân và đề nghị Nhà nước truy tặng Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Thượng úy, nhà báo, liệt sĩ Lê Đình Dư./.
Đại tá TRẦN VĂN THÀ
(Nguyên Tiểu đoàn trưởng Bộ binh 47, Trung đoàn 270)