Cuối tháng 11-1976, chúng tôi gồm 25 sĩ quan, cấp bậc thiếu úy, lên xe về Bộ Giáo dục nhận công tác, quân số thuộc Bộ tư lệnh Thủ đô (nay là Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội) quản lý.
Chúng tôi là những sĩ quan biệt phái đầu tiên của Bộ tư lệnh Thủ đô, công tác trong ngành giáo dục. Sau một thời gian tập huấn, tháng 12-1976, chúng tôi về nhận công tác tại Ban Quân sự của Bộ Giáo dục và các Trường Đại học Sư phạm (ĐHSP): Hà Nội 1, Hà Nội 2, Ngoại ngữ Hà Nội; ĐHSP Việt Bắc, ĐHSP Vinh và Trường Cao đẳng Sư phạm Thể dục-Nhạc họa Trung ương. Các sĩ quan về Ban Quân sự của Bộ thì làm trợ lý, số về các trường làm giảng viên môn quân sự.
Huấn luyện Điều lệnh Đội ngũ cho học viên tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng Hà Nội 1.
Ảnh: NGỌC BÍCH
Là những sĩ quan trẻ, mới ra trường tràn đầy nhiệt huyết, chúng tôi chỉ muốn được thử thách ở các đơn vị quân đội, ở nơi gian khó trên mọi miền đất nước, nay về môi trường công tác mới - công việc mà chưa ai nghĩ tới khi được đào tạo ở trường, nên gặp không ít bỡ ngỡ. Chúng tôi phải chuẩn bị bếp dầu, thùng đựng gạo, xoong nồi, bát đĩa; rồi cũng xếp hàng mua gạo, thực phẩm, chất đốt…; đi chợ mua rau xanh, thực phẩm; cuộc sống khó khăn, phải tính toán chi tiêu từng hào. Số anh em công tác tại các trường ở Nghệ An, Thái Nguyên, Vĩnh Phú… hằng tháng còn phải về Hà Nội nhận lương, nhu yếu phẩm, đi lại rất vất vả, tốn kém. Trong công tác chuyên môn, cũng gặp không ít khó khăn. Ở các nhà trường, cơ sở vật chất, phương tiện dạy học rất thiếu thốn, chỉ gồm mấy khẩu súng K44 và ít lựu đạn gỗ. Từ môi trường học tập rèn luyện chính quy, về các trường sư phạm huấn luyện cho HS, SV, cùng những khó khăn về điều kiện công tác, cuộc sống, nên một số đồng chí muốn trở lại đơn vị chiến đấu.
Nắm bắt được tâm tư đó, cấp trên thường xuyên động viên, khích lệ chúng tôi. Vậy là, đêm đêm, anh em chong đèn đọc sách chuyên môn, tự nghiên cứu tâm lý học, giáo dục học, soạn giáo án cho phù hợp với đối tượng; ban ngày làm mô hình huấn luyện, bãi tập, thông qua bài giảng...; trong giảng dạy, có nhiều phương pháp phù hợp, nên các buổi học khá hấp dẫn; không ít sinh viên đã qua quân ngũ, thực tế chiến trường cũng phải nể phục. Cùng với giảng dạy, chúng tôi tổ chức “tập huấn nội bộ”, góp phần nâng cao trình độ của các giáo viên dân sự trong khoa, bộ môn.
Rồi chiến tranh biên giới ở hai đầu đất nước nổ ra. Cùng với giảng dạy, chúng tôi tích cực tham gia công tác quân sự địa phương, đi thực tế biên giới. Số anh em ở Ban Quân sự của Bộ thì đến các tỉnh Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, An Giang, Kiên Giang…; xuống tận các trường giáp biên để nắm tình hình và chỉ đạo công tác phòng tránh, sơ tán. Số anh em ở các trường ĐHSP thì làm tham mưu cho ban giám hiệu về công tác quân sự và trực tiếp tổ chức xây dựng, huấn luyện lực lượng tự vệ, SSCĐ. Các đơn vị tự vệ được thành lập cấp tốc; hàng trăm lá đơn của cán bộ, giáo viên, sinh viên tình nguyện nhập ngũ bảo vệ biên giới; thầy trò chúng tôi cũng luôn sẵn sàng ra trận...
Những năm sau đó, nội dung GDQS cho HS, SV được đổi mới phù hợp với yêu cầu quốc phòng. Chương trình GDQS cho sinh viên tương đương với chương trình huấn luyện chiến sĩ mới trong quân đội. Sinh viên đại học tốt nghiệp, trước khi ra trường được huấn luyện thành sĩ quan dự bị (SQDB). Đội ngũ giảng viên ít, phải đảm nhiệm khối lượng công việc rất lớn, có thời điểm chúng tôi phải đồng thời huấn luyện SQDB và huấn luyện quân sự cho sinh viên. Nhiều đêm, giáo viên quân sự phải dậy từ một hai giờ, đưa hàng nghìn sinh viên đi bắn đạn thật; rồi huấn luyện SQDB trong những ngày hè nắng gắt, hoặc đi thỉnh giảng ở các tỉnh, thành phố phía Nam…
Đáng mừng là qua nhiều năm, môn học GDQS (nay là môn Giáo dục quốc phòng và an ninh) đã có bước phát triển vượt bậc. Hệ thống tổ chức quản lý chỉ đạo thực hiện được hình thành từ Trung ương đến cơ sở; đội ngũ giáo viên, giảng viên được biên chế cơ bản đủ số lượng, bảo đảm chất lượng. Là những sĩ quan biệt phái đầu tiên của Bộ tư lệnh Thủ đô, tròn 40 năm đã qua, lớp giáo viên quân sự chúng tôi ngày đó đều đã nghỉ hưu, nhưng những năm tháng làm sĩ quan biệt phái nhiều gian khó mà đầy ắp kỷ niệm với chúng tôi thì không thể nào quên.
NGUYỄN NGỌC HIỆP