Đó là những thông tin Thượng tá Nguyễn Văn Vĩnh, Bí thư Đảng ủy, Phó giám đốc Công ty 91 (Tổng công ty Đông Bắc) tự hào giới thiệu về chân dung thợ lò Hoàng Văn Vĩnh, Tổ trưởng sản xuất Công trình 2, Công ty 91.

Anh Hoàng Văn Vĩnh, Tổ trưởng sản xuất Công trình 2, Công ty 91. 

Người thợ lò Hoàng Văn Vĩnh có dáng người tầm thước, nụ cười hiền, thân thiện. Với lối nói chuyện giản dị, mộc mạc, anh Vĩnh trải lòng: "Năm 2002, tôi chính thức được tuyển dụng vào làm công nhân khai thác hầm lò thuộc Xí nghiệp Khai thác than 91 (nay là Công ty 91). Công việc của người thợ lò gói gọn trong 8 chữ “ăn cơm dương gian, làm việc âm phủ”. Thế nhưng, dù vất vả, nhọc nhằn đến đâu thì sau 20 năm gắn bó, Công ty đã thực sự trở thành một phần máu thịt".

Làm việc trong điều kiện phức tạp, hiểm nguy cận kề, rình rập, anh Vĩnh luôn xác định rõ tư tưởng, nêu cao trách nhiệm, thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc các công đoạn, quy trình, nguyên tắc bảo đảm an toàn lao động. Từ thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, anh luôn trăn trở, suy nghĩ làm thế nào giảm thiểu sức lao động cho người lao động, giảm thiểu đến mức thấp nhất tai nạn có thể xảy ra, tăng năng suất lao động. Từ trăn trở đó, anh chủ động tìm tòi, nghiên cứu, đề xuất nhiều ý tưởng, giải pháp khoa học trong đào lò, chống giữ lò, nhất là khi đường lò gặp vỉa vách phức tạp... Bằng trí tuệ, tâm huyết, năm 2019, anh Vĩnh cho ra đời sáng kiến “Nghiên cứu áp dụng đào lò song song họng sáo thay thế lò họng sáo trong khai thác lò chợ ZRY tại Công trường 2”, mang lại hiệu quả kinh tế 1,5 tỷ đồng.

Trước đó, anh Vĩnh có sáng kiến “Khai thác hợp lý hóa Lò chợ xiên chéo ZRY mức+260/+320 khu I vỉa 4” (năm 2018), mang lại hiệu quả kinh tế trị giá 5,3 tỷ đồng. Nói về hiệu quả của sáng kiến này, Thượng tá Nguyễn Văn Vĩnh khẳng định: "Áp dụng sáng kiến vào thực tiễn sản xuất của đơn vị, sản lượng khai thác than tăng lên đáng kể; giảm chi phí và tổn thất than. Cùng với đó, điều kiện làm việc của công nhân và mức độ an toàn trong hầm lò được nâng cao".

Không chỉ tâm huyết, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, anh Vĩnh còn là người luôn quan tâm đồng nghiệp; tích cực vận động anh em trong tổ thực hiện nghiêm nội quy, quy định của đơn vị; bảo đảm đủ và vượt chỉ tiêu được giao hằng tháng. Bản thân ngày công và năng suất lao động trong tháng của anh luôn đạt và vượt kế hoạch định mức.

Trước lúc chia tay, anh Vĩnh không nói về những thành tích và nỗ lực của bản thân đã đạt được mà chỉ khẳng định chắc nịch: “Công việc của người thợ lò vô cùng gian truân, vất vả... Nếu không yêu, không gắn bó, không thật sự tâm huyết thì bạn sẽ không thể gắn bó được với nghề”.

Bài và ảnh: NAM TRUNG