QĐND Online - Tương kế, tựu kế là biết rõ và lợi dụng mưu kế của đối phương để lập ra kế của mình đánh lại chúng. Sách Binh thư yếu lược viết: “…Nhân cách lừa của địch mà lừa nó… lấy sự lừa của nó để làm cho nó bị lừa, nó lừa mà ta thì biết. Cho nên, người giỏi dùng binh lừa người mà không bị người lừa”.

Tướng Đờ Cát-xtơ-ri và bộ tham mưu cứ điểm Điện Biên Phủ ra hàng, chiều ngày 7-5-1954. Ảnh tư liệu

Dùng mưu của mình để lừa địch đã giỏi, nhưng dùng chính kế của địch để đánh địch, lấy “gậy ông đập lưng ông” thì lại càng tinh vi, hiểm hóc hơn. Đây là một quá trình đấu mưu, chọi kế quyết liệt giữa hai bên đối chiến. Ai thông minh hơn, có bản lĩnh cao hơn, người đó sẽ thắng.

Muốn tương kế, tựu kế, trước hết phải biết được kế của địch. Người chỉ huy chẳng những phải nắm vững lực lượng, cách bày binh bố trận và mọi động thái của quân địch mà còn phải có năng lực phân tích, phán đoán sắc sảo ý đồ sâu kín của chỉ huy địch, nhìn thấy trước đường đi nước bước của chúng để không mắc mưu địch mà còn tìm ra những sơ hở trong kế của địch và tìm cách quật lại chúng. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, thực hiện được tương kế, tựu kế thì từ bị động sẽ chuyển thành chủ động, đã chủ động càng chủ động cao hơn, tạo được bất ngờ tối đa, giành thắng lợi to lớn.

Ở vào giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ hai (1285), Trần Hưng Đạo và Vua Trần đã nêu gương xuất sắc về vấn đề này. Sau khi vào được kinh thành Thăng Long bỏ ngỏ, kế của quân Nguyên là dùng đạo quân Thoát Hoan từ Thăng Long đánh xuống, quân Toa Đô từ Nghệ An-Thanh Hóa đánh ra, kẹp chặt đạo quân Vua Trần ở Thiên Trường-Trường Yên giữa hai gọng kìm. Biết rõ kế giặc, Vua Trần lập mưu cầu hòa, tạm thời hoãn chiến, một mặt làm cho địch tưởng rằng chúng đã thành công, một mặt giành lấy thời gian rút hết đại quân ra biển. Sau đó, Vua Trần cho một đạo quân lên vùng Đông Bắc hợp với đạo quân của Trần Hưng Đạo án ngữ ở Vạn Kiếp, còn đại quân thì vượt biển vào Thanh Hóa, ép sau lưng đạo quân của Toa Đô vừa tiến lên phía Trường Yên. Thế là ta đã thoát khỏi thế bị kẹp giữa hai gọng kìm của quân Nguyên mà còn hình thành hai gọng kìm lớn hơn kẹp lại quân địch. Tình thế đó đã làm xuất hiện thời cơ phản công mà Trần Hưng Đạo và Vua Trần đã kịp thời nắm lấy để giáng đòn quyết định tiêu diệt hoàn toàn 50 vạn quân Nguyên xâm lược.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ cũng là một ví dụ hay về tương kế, tựu kế. Cuối năm 1952, sau khi bị mất hết vùng Tây Bắc rộng lớn, quân Pháp lần đầu tiên trong chiến tranh xâm lược Việt Nam đã xây dựng một tập đoàn cứ điểm ở Nà Sản với binh lực 8 tiểu đoàn. Ta đã tiến hành đột phá vào Nà Sản nhưng không thành công. Thấy vậy, Bộ chỉ huy Pháp đinh ninh rằng xây dựng tập đoàn cứ điểm là một kế lợi hại, có thể chặn đứng cuộc tấn công của ta trên mọi hướng, thu hút chủ lực của ta đến để tiêu diệt, từ đó giành lại quyền chủ động chiến trường. Biết rõ kế của địch, bước vào Đông Xuân 1953-1954, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở cuộc tiến công trên những hướng sơ hở, hiểm yếu của địch ở Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào và Tây Nguyên, buộc quân Pháp tung lực lượng cơ động chiến lược ra lập thành các tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ, Xê-nô (Trung Lào), Luông Prabăng (Thượng Lào)… Thế là ta đã lợi dụng được kế của địch để phân tán chủ lực địch và giam chân chúng trên nhiều hướng, từ đó tạo thời cơ tập trung lực lượng vào chiến trường chính do ta lựa chọn để tiêu diệt lớn quân địch. Đối với Điện Biên Phủ, một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương, mà Nava gọi là “một Vec- đoong thứ hai ở Viễn Đông”, Bộ chỉ huy Pháp tin rằng, nếu ta chấp nhận giao chiến ở Điện Biên Phủ là sa vào bẫy của họ và sẽ bị nghiền nát. Nhưng họ không ngờ rằng, chính quân Pháp đã trúng kế của ta. Chúng đã bị ta điều đến chiến trường xa, hoàn toàn bị cô lập mà ta có khả năng và thế lợi để tiêu diệt chúng. Thực tế chiến thắng lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu đã chứng minh điều đó.

Đại tá, Thạc sĩ Mai Danh Thư (tổng hợp)