QĐND Online - Nghệ thuật đánh địch trong thành phố của các lực lượng vũ trang ta có qúa trình phát triển từ thấp đến cao
          Khi thực dân Pháp gây hấn ở Nam Bộ (ngày 23-9-1945), ta đã đánh địch ở thành phố Sài Gòn và các thành phố, thị xã miền Nam. Khi kháng chiến toàn quốc bắt đầu, ta đánh địch ở thành phố Hà Nội và một số thành phố, thị xã khác. Vì lực lượng vũ trang của ta còn non trẻ, quân và dân ta đã dựa vào chiến lũy đường phố để ngăn chặn, làm chậm bước tiến của quân địch, tiến công chúng theo lối du kích, chỉ vây hãm, giam chân địch trong một thời gian rồi rút ra.
          Từ sau năm 1950 đến đầu năm 1954, ta giải phóng được nhiều thành phố, thị xã do kết quả đánh tiêu diệt lớn quân địch ở nơi khác, gây áp lực buộc chúng phải rút. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ta đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn và đô thị. Riêng việc đánh địch ở đô thị, lúc đầu ta đánh địch chỉ bằng đặc công, biệt động và đấu tranh chính trị. Đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, quân và dân ta tiến công địch trên 44 thành phố và thị xã bằng tập kích của chủ lực, đặc công, biệt động và nổi dậy của quần chúng. Tuy nhiên, quân và dân ta chưa giải phóng và làm chủ được những thành phố và thị xã đã đánh vào, chỉ làm chủ được thành phố Huế trong một thời gian ngắn rồi rút ra. Năm 1972, do đánh tiêu diệt lớn, ta buộc địch phải rút khỏi thị xã Quảng Trị. Ở Kon Tum và Bình Long, ta tiến công nhưng chưa đủ sức giải phóng và làm chủ hoàn toàn hai thị xã này.
          Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vấn đề giải phóng thành phố, thị xã đã trở thành cấp thiết, yêu cầu đặt ra là nhất thiết ta phải giải quyết thành công nghệ thuật tiến công thành phố, thị xã. Bộ Tổng tham mưu tập trung biên soạn tài liệu lý luận nghệ thuật chiến dịch tiến công thành phố. Đề ra 4 cách đánh có thể ứng dụng là: tiến công trực tiếp, liên tục đột phá, giải phóng thành phố, thị xã trong một thời gian ngắn; tiến hành những trận đánh tiêu diệt lớn quyết định ở ngoài, nhân đà thắng lợi tiến vào giải phóng thành phố, thị xã hoặc tiêu diệt quân địch rút chạy; vây hãm, đột phá lần lượt nhiều đợt, cuối cùng tổng công kích giải phóng thành phố, thị xã; tiến công thành phố, thị xã trong hành tiến, trong quá trình địch tan rã. Các cách đánh này có thể kết hợp hoặc không kết hợp với sự nổi dậy của quần chúng.
          Tài liệu này của Bộ Tổng Tham mưu đã giúp ích nhiều cho các mặt trận, thị xã Phước Long được giải phóng là do vận dụng cách đ
ánh thứ nhất. Tiếp đó, Buôn Ma Thuột là thị xã cần được giải phóng để mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Ta đã bày mưu, nghi binh kéo chủ lực của địch lên Plây-cu, Kon Tum, cắt các đường số 19, 21, 14 đúng lúc... từ đó, bất ngờ đánh Buôn Ma Thuột trong thế địch sơ hở, cô lập. Được tổ chức, hiệp đồng chu đáo, các mũi gồm bộ binh, xe tăng, pháo mặt đất, pháo cao xạ tập kích từ xa vào; đồng loạt tiến công từ ngoài vào kết hợp thọc sâu, đánh chiếm nhiều mục tiêu quan trọng, đánh bại các cuộc phản kích, tổ chức đột phá tiếp vào sở chỉ huy... hoàn thành việc giải phóng thị xã.
          Chiến dịch Huế - Đà Nẵng diễn ra trong thế địch bị chấn động ở Tây Nguyên, ta nhanh chóng hình thành thế bao vây, chia cắt, kết hợp tiến công và nổi dậy giải phóng hai thành phố quan trọng này của miền Trung trong thời gian ngắn. Tiếp đó, bộ đội chủ lực ta đã kết hợp với quân và dân dịa phương giải phóng trong hành tiến các thị xã cực Nam Trung Bộ, tiến công Xuân Lộc, rồi tiến vào giải phóng Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử sử dụng 5 quân đoàn bộ đội hợp thành, nhiều binh đoàn pháo binh, pháo cao xạ, xe tăng, thiết giáp.... Đây là chiến dịch có quy mô lớn nhất, quân và dân ta vận dụng cách đánh tiêu diệt lớn địch ở ngoài kết hợp với đánh thọc sâu; đồng thời phát động quần chúng nổi dậy giải phóng thành phố trong một thời gian ngắn. Sau đó, ta tiến công giải phóng nốt các thị xã còn lại ở đồng bằng sông Cửu Long bằng kết hợp tiến công của các binh đoàn chủ lực với nổi dậy của quần chúng ở các địa phương này./.
NGUYỄN THẾ VỴ