Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố tạo nên, trong đó yếu tố tiên quyết là có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng với nghệ thuật chỉ đạo giành thắng lợi từng bước. Nghệ thuật đó được thể hiện rõ nét qua các giai đoạn của cuộc kháng chiến.

Ngay sau khi thay chân Pháp ở Đông Dương, đế quốc Mỹ đã thiết lập một bộ máy quân sự, cảnh sát khổng lồ và tiến hành đàn áp dã man đồng bào ta ở miền Nam. Thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương, Đảng chỉ đạo nhân dân đấu tranh chính trị đòi Mỹ - ngụy phải thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhưng với bản chất hiếu chiến, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tăng cường đàn áp dã man đồng bào ta. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 15 (1-1959) của Đảng họp và quyết định kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Nghị quyết 15 đã dẫn đến phong trào Đồng khởi trên toàn miền Nam, giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Ai-xen-hao của đế quốc Mỹ - mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công liên tục.

Tháng 1-1961, Bộ Chính trị họp chỉ rõ hướng phát triển của cách mạng sau Đồng khởi là chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng, đồng thời chỉ ra phương châm là: Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đưa đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, cách mạng liên tiếp giành thắng lợi, như Ấp Bắc (2-1-1963), Bình Giã (12-1964 mở ra phong trào thi đua diệt Mỹ - ngụy). Giữa nam 1965, “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị thất bại hoàn toàn.

Thất bại liên tiếp trên chiến trường, nhưng Mỹ vẫn tiếp tục leo thang chiến tranh, thực hiện “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và leo thang đánh phá miền Bắc.Vấn đề đặt ra là chúng ta có dám đánh Mỹ không? Và đánh Mỹ bằng cách nào? Từ thực tiễn đó, Trung ương Đảng đã họp Hội nghị 11 (3-1965) và hạ quyết tâm: Đánh Mỹ và thắng Mỹ. Tiếp đó là Hội nghị 12 (12-1965) nhận định: Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ từ “chiến tranh đặc biệt” chuyển sang “chiến tranh cục bộ”, song không thay đổi về tính chất và mục đích, vẫn là thực dân mới. Đảng ta hạ quyết tâm đánh thắng ngay từ trận đầu như: Núi Thành (27-5-1965), tiếp theo là Vạn Tường, Plây-me, 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô, Tết Mậu Thân (1968) thắng lợi tiếp nối thắng lợi làm phá sản “chiến tranh cục bộ” của Mỹ.

Thất bại liên tiếp nhưng Mỹ vẫn muốn tiếp tục kéo dài chiến tranh bằng “Việt Nam hoá chiến tranh” với những âm mưu thâm độc và xảo quyệt. Tháng 1-1970, Trung ương Đảng ta họp Hội nghị 18, phân tích toàn diện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trước mắt cho cách mạng miền Nam là ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao làm thất bại âm mưu “Việt Nam hoá chiến tranh” của đế quốc Mỹ.

Tháng 4-1970, Mỹ mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia, Hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương đã họp và xác định Đông Dương là một chiến trường, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ ba nước Đông Dương chống Mỹ xâm lược. Nam 1969-1971, ta phối hợp với quân dân Lào và Cam-pu-chia giành thắng lợi lớn ở Xảm Thông - Loong Chẹng, Cánh Đồng Chum giải phóng 4,5 triệu dân ở Cam-pu-chia, chiến thắng Đường 9 - Nam Lào đã mở ra khả nang đánh bại chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ.

Ngày 30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam với quy mô lớn, cường độ mạnh gây cho địch thất bại nặng. Chúng đã “Mỹ hoá” trở lại cuộc chiến tranh, đồng thời thực hiện ngoại giao xảo quyệt. Mỹ lật lọng tại Hội nghị Paris và tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng cuối tháng 12-1972. Những cố gắng quân sự đã bị thất bại buộc Mỹ ký Hiệp định Pa-ri. Ta đã giành thắng lợi quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Mặc dù phải ký Hiệp định Pa-ri, rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tiếp tục dùng ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới của chúng ở miền Nam.

Sau Hiệp định Pa-ri, ở miền Nam chưa hòa bình thật sự, Mỹ, ngụy vẫn tiến hành bình định và lấn chiếm khắp miền Nam. Trung ương họp Hội nghị 21 (7-1973), phân tích rõ tình hình và khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam lúc này là: Tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ngụy quyền, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Phương pháp là dùng bạo lực cách mạng để giành thắng lợi hoàn toàn.

Nghị quyết Trung ương 21 đã kịp thời khắc phục những thiếu sót, lệch lạc từ sau Hiệp định Pa-ri. Đầu nam 1974, về cơ bản ta đã giành lại được các vùng giải phóng và vùng tranh chấp bị địch lấn chiếm từ sau Hiệp định Pa-ri. Giữa nam 1974, thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đang chín muồi.

Tháng 10-1974, Bộ Chính trị họp đề ra Kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 nam (1975-1976). Tháng 1-1975, Bộ Chính trị nhận định: “Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn, thuận lợi như lúc này để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc”. Theo đó, Đảng chỉ đạo giải phóng hoàn toàn miền Nam thông qua 3 chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 30-4-1975 miền Nam được hoàn toàn giải phóng.

Đảng lãnh đạo với đường lối đúng đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đi từ thắng lợi từng phần, tiến tới thắng lợi trọn vẹn, thực hiện di huấn của Bác Hồ: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” - Đó chính là thắng lợi của nghệ thuật chỉ đạo giành thắng lợi từng bước của Đảng ta. Nghệ thuật thắng từng bước đã được Đảng vận dụng vào chỉ đạo giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trước đây, ngày nay Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo vào chỉ đạo công cuộc đổi mới và đã từng bước giành thắng lợi to lớn, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đại tá, tiến sĩ Nguyễn Văn Bạo