QĐND - Năm 1962, sau khi đã tổ chức các chuyến trinh sát và chuẩn bị bến bãi, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương thấy đã có đủ điều kiện để vận chuyển chi viện chiến trường miền Nam bằng đường biển. Chuyến tàu vỏ gỗ đầu tiên mang tên “Phương Đông 1” do đồng chí Lê Văn Một và Bông Văn Dĩa chỉ huy cùng 10 thủy thủ khác đem theo 30 tấn vũ khí khởi hành vào Nam ngày 11-10-1962. Sau một tuần vật lộn với sóng gió và mưu trí vượt qua sự ngăn chặn của địch, ngày 16-10 tàu vào đến bến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn. Từ đây, tuyến vận tải “đường Hồ Chí Minh” trên Biển Đông được chính thức khai thông.
Tiếp theo tàu “Phương Đông 1” là các tàu Phương Đông 2, 3, 4 lần lượt lên đường. Trong vòng hai tháng, các tàu này đã vận chuyển được 111 tấn vũ khí, đạn dược chi viện cho chiến trường miền Nam. Tuy khối lượng hàng chưa được nhiều nhưng là sự bổ sung quý báu cho chiến trường, khích lệ đồng bào Nam Bộ tiến lên giành những thắng lợi mới. Các chuyến đi cũng tích lũy được kinh nghiệm trong vận chuyển bằng đường biển từ Bắc vào Nam.
 |
Tàu vận chuyển vũ khí cải dạng tàu nước ngoài chở vũ khí vào chiến trường miền Nam. Ảnh tư liệu. |
Tháng 9-1963, ta tiếp tục dùng tàu vỏ gỗ mở bến mới tại tỉnh Bà Rịa. Số lượng vũ khí do con tàu này đưa vào đã kịp thời chi viện cho bộ đội ta đánh trận Bình Giã giành thắng lợi. Tháng 10-1963, Bộ Tổng tham mưu tổ chức cuộc họp nhằm hiện thực hóa chủ trương đưa Bộ đội Hải quân vào vận chuyển vũ khí trang bị chi viện miền Nam. Tháng 1-1964, Đoàn 759 được đổi thành Đoàn 125 có quy mô tương đương cấp trung đoàn, được bổ sung nhiều thuyền trưởng, thủy thủ giỏi, chuẩn bị cho đợt vận chuyển lớn vào Nam Bộ. Trong vòng hơn một năm (từ tháng 1-1964 đến tháng 2-1965) Đoàn 125 đã huy động 20 tàu cả vỏ sắt và vỏ gỗ, tổ chức được 88 chuyến tiếp tế cho Nam Bộ, kể cả các chuyến đưa đón cán bộ. Tổng trọng lượng hàng vận chuyển vào chiến trường đạt gần 4000 tấn.
Để đưa được một khẩu súng, một viên đạn vào chiến trường, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 đã trải qua biết bao gian khổ hy sinh. Trang bị trên tàu thiếu thốn, lạc hậu. Mỗi con tàu chỉ có một máy nổ, không có máy dự phòng, vào bờ thì phải đo độ sâu bằng sào tre. Nhưng với trí thông minh và lòng dũng cảm vô bờ, cán bộ, chiến sĩ đã chiến thắng kẻ thù trên biển cả.
Đến ngày 15-2-1965, tàu 143 của ta có trọng tải 100 tấn vận chuyển hàng vào Vũng Rô (Phú Yên) thì bị địch phát hiện. Phần lớn vũ khí trang bị trên tàu đã được cơ sở của ta phân tán. Cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã dũng cảm tổ chức đánh trả máy bay và lực lượng tuần tiễu của địch. Tuy nhiên do lực lượng quá chênh lệch, ta đã cho nổ bộc phá để hủy tàu. Đêm 17-2, cán bộ, chiến sĩ tàu 143 rút khỏi vòng vây của địch để bảo toàn lực lượng. Sau sự kiện Vũng Rô, địch thực hiện kế hoạch phong tỏa đường biển mang tên Mát-két Tai-mơ. Trước sự lùng sục gắt gao của địch trên tuyến đường biển, Bộ đội Hải quân tiếp tục nghiên cứu các cách vận chuyển mới bảo đảm bí mật, an toàn hơn. Như vậy, tính từ tháng 2-1962 đến tháng 4-1972 tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển đã tổ chức 169 chuyến đi, có 100 chuyến hàng tới đích, đưa được 5.631 tấn vũ khí, trang bị chi viện cho chiến trường miền Nam.
TRẦN KIM HÀ