QĐND - Vào một ngày đầu tháng 5-1964, để lập thành tích chào mừng sinh nhật Bác Hồ, chỉ huy Đoàn tàu không số (Lữ đoàn 125) phát động đợt thi đua đặc biệt mà nội dung chủ yếu là đột phá mở đường, đem hàng vào chiến trường bằng phương tiện mới: Tàu vận tải vỏ sắt do Xưởng Đóng tàu Bạch Đằng (Xưởng đóng tàu 3-Hải Phòng) thiết kế và thi công. Tàu có sức chở lớn, tốc độ nhanh, trang bị máy móc hàng hải tương đối hiện đại, hơn hẳn những con tàu gỗ trước đó. Đơn vị tàu không số mang mật danh 41 của chúng tôi được cấp trên tín nhiệm sử dụng loại tàu mới này để đưa hàng vào Cà Mau-bến tận cùng cực Nam của Tổ quốc.

Trước vinh dự lớn lao này, mọi cán bộ, chiến sĩ trên tàu đều hồ hởi, phấn khởi, thi đua đưa hàng xuống thật nhanh, chuẩn bị hậu cần thật tốt. Đặc biệt, về tư tưởng, ai nấy đều xác định sẵn sàng chấp nhận hy sinh, gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ.

Chuyến đi đó của chúng tôi lúc ấy chưa xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ (5-8-1964). Tuy nhiên, khi đó ở vùng Vịnh Bắc Bộ của nước ta đã dày đặc tàu chiến, máy bay thuộc Hạm đội 7 của đế quốc Mỹ; cùng với nó là tàu chiến của ngụy quân phong tỏa suốt ngày đêm. Mọi con đường của tàu, thuyền bị địch kiểm soát, ngăn chặn gắt gao. Nhiều chuyến tàu, chuyến tiếp tế ra các đảo nằm trong Vịnh Bắc Bộ đã bị tàu địch bắn chìm, thủy thủ hy sinh nên con đường tiếp tế vào chiến trường miền Nam của những con tàu không số gặp không ít khó khăn. Nhưng với tinh thần quyết tâm cao, cán bộ, chiến sĩ Tàu 41 đã khôn khéo chuyển hướng hành trình xa bờ, lợi dụng vùng biển giáp ranh giữa ta và nước bạn, luồn lách qua các hòn đảo, làm hạn chế khả năng trinh sát kỹ thuật bằng sóng ra-đa từ các tàu chiến Mỹ. Cứ như thế, Tàu 41 thoát khỏi tầm kiểm soát của địch, ung dung tiến ra Biển Đông, thẳng hướng miền Nam.

Tàu 41 (ảnh thu từ tài liệu của địch).

Thời tiết tháng 5 nên trên biển hay có giông lớn. Đêm đó, Tàu 41 đã không may bị một cơn giông đột ngột kéo đến, sóng gió quá to đã hất con tàu và hơn 60 tấn vũ khí vào một bãi cạn san hô thuộc quần đảo Hoàng Sa. Giữa biển cả mênh mông, đêm tối, sóng lại lớn, các thủy thủ nhìn nhau mắt cay sè, nỗi lo âu tràn ngập... Nhưng với kinh nghiệm dày dạn và bản lĩnh vững vàng, Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh và Chính trị viên Nguyễn Hoàng Chiến đã giúp anh em nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Mọi người cùng nhau lặn xuống biển, đào san hô thành cái rãnh sâu để đưa tàu thoát khỏi bãi cạn. Kế hoạch này được triển khai gấp rút trong đêm. Từ những người già đến các thủy thủ tuổi đôi mươi lần đầu tham gia Đoàn tàu không số  như tôi đều thi nhau bẩy đá, đào rãnh, làm tời, mắc cáp kết hợp với hệ thống kéo neo đã có sẵn để lôi con tàu nặng hơn 100 tấn ra khỏi bãi cạn ngay trong đêm. Sở dĩ chúng tôi phải làm ngay trong đêm vì nếu để đến sáng hôm sau thì chẳng biết điều gì sẽ xảy ra. Bởi nơi con tàu mắc cạn gần ngay một hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Hoàng Sa do hải quân ngụy trấn giữ.

Thời gian “chiến đấu” cùng bóng đêm đã xuất hiện những tấm gương quên mình. Tôi cứ nhớ mãi tấm gương của hai thủy thủ già là bác Trần Nhợ, quê ở Bình Định và bác Nguyễn Văn Lộc, quê ở Núi Thành (Quảng Nam). Lúc đó, hai bác đều đã ở tuổi 50 (sau đó, hai bác đều hy sinh trong một chuyến tàu đưa hàng vào Nam). Còn trong các thủy thủ trẻ, có Nguyễn Công Ở, quê Quảng Bình, đã lập công xuất sắc, sau chuyến này được Bác Hồ tặng chiếc đồng hồ mạ vàng mà trang Tiếp lửa truyền thống, Báo Quân đội nhân dân đã phản ánh qua bài “Cảm tử cứu tàu không số” ngày 3-6-2011... Đó là những đảng viên đã nhận về mình mọi việc nguy hiểm. Nhờ có những con người như vậy, chúng tôi đã đưa tàu vượt ra khỏi bãi cạn, tiếp tục cuộc hành trình vào bến Cà Mau theo đúng kế hoạch. Chúng tôi đã được chỉ huy Lữ đoàn 125 công nhận: “Lập được chiến công xuất sắc dâng mừng sinh nhật Bác Hồ kính yêu và làm tiền đề cho một giai đoạn vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam bằng tàu mới hiện đại”.

Sau chuyến đi vượt qua sự cố mắc cạn đó, chúng tôi liên tiếp thành công trong các chuyến vận chuyển vũ khí vào miền Nam, góp phần giúp quân dân Khu 5 và Tây Nguyên liên tiếp giành thắng lợi trong các trận đánh lớn, giải phóng nhiều vùng dân cư, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Bây giờ, mỗi lần nhớ lại chuyến đi bị mắc cạn ở Biển Đông năm nào, lòng tôi không khỏi xúc động. Cứ nghĩ đến những hiểm nguy rình rập đã qua, lại thấy thành công của Đoàn tàu không số thật vĩ đại. Tôi càng bồi hồi hơn khi nhớ về những người đồng đội đã hòa thân mình vào biển cả mênh mông để góp phần đem lại chiến thắng rực rỡ cho đất nước, cho dân tộc.

Trần Tiền Vệ, Nguyên thủy thủ Đoàn tàu không số