Ngay sau khi được thành lập, Công trường 7 được giao nhiệm vụ chiến đấu và bảo đảm cơ động trên mặt trận Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng (Thượng Lào). Bằng ý chí "Quyết chiến-Quyết thắng", tinh thần lao động cần cù, sáng tạo, tự lực, vừa chiến đấu, vừa mở đường bảo đảm cơ động cho các đơn vị, Công trường 7 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên đất bạn Lào, mở ra trang sử vẻ vang của Đoàn Hùng Vương Anh hùng.
 |
| Đại tá Đinh Quang Thái, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Công binh 7. |
Chiến công nối tiếp chiến công. Sau gần hai năm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giúp bạn trên mặt trận Thượng Lào, tháng 10-1967, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định chuyển Công trường 7 thành Trung đoàn Công binh Cầu đường 7 và giao nhiệm vụ nhanh chóng hành quân về Khai Sơn, Anh Sơn, Nghệ An để nhận nhiệm vụ mở Đường số 9-Nam Lào và bảo đảm công binh trên các chiến trường. Không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm công binh mà Trung đoàn còn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu với những tấm gương hy sinh anh dũng. Đó là các chiến sĩ Đại đội 4 (Tiểu đoàn 2) lấy thân mình làm cọc tiêu cho xe tăng tiến dọc sông Sê Pôn vào đánh căn cứ Làng Vây; chiến sĩ Đại đội 1 (Tiểu đoàn 1) anh dũng mở đường qua bãi mìn dài 2km, hộ tống xe tăng vượt qua cửa mở dưới làn hỏa lực dày đặc. Hay như đồng chí Bùi Ngọc Dương, Trung đội phó Trung đội 3, Đại đội 1, khi bị một mảnh bom của địch phạt vào cánh tay trái, anh đã nhờ đồng đội cắt đứt hẳn cánh tay để tiếp tục chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Những chiến công xuất sắc đó đã góp phần để đến ngày 25-8-1970, Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân lần thứ nhất cho Trung đoàn.
Trong khí thế "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, ngày 31-10-1971, Trung đoàn Công binh 7 được lệnh hành quân vào chiến trường Tây Nguyên. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn đã hăng hái, phấn khởi lên đường, tiếp tục xẻ núi, lấp sông, phá bom, làm đường, bắc cầu vào mặt trận với tinh thần “Bảo đảm đường thông, vượt sông thần tốc”, “Sông nước là nhà, cầu phà là trận địa”. Ngay từ khi đặt chân đến Tây Nguyên, Trung đoàn đã cùng các đơn vị bạn chiến đấu đập tan cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ-ngụy ở Nam Lào, giáng đòn phủ đầu vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ; Chiến thắng Đăk Tô-Tân Cảnh năm 1972, một lần nữa minh chứng cho tinh thần anh dũng và sức mạnh chiến đấu của Trung đoàn.
Để đáp ứng yêu cầu của cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa xuân 1975, với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 26-3-1975, Quân đoàn 3-Binh đoàn Tây Nguyên được thành lập, từ đó Trung đoàn Công binh 7 được biên chế về đội hình chiến đấu của Quân đoàn 3 (nay là Quân đoàn 34).
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Quân đoàn 3 đảm nhiệm tiến công địch theo hướng Tây Bắc, Trung đoàn Công binh 7 được giao nhiệm vụ bảo đảm công binh cho Quân đoàn chiến đấu. Thực hiện phương châm “Sống bám cầu, bám đường, chết kiên cường, bất khuất”, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Công binh 7 đã không ngại hy sinh, gian khổ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Sau Chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 1-9-1975, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân đoàn 3 ra quyết định phát triển Trung đoàn Công binh 7 thành Lữ đoàn Công binh 7.
 |
| Lữ đoàn Công binh 7 tổ chức huấn luyện vượt sông. |
Đất nước thống nhất, nhân dân ta chưa kịp khắc phục hết những hậu quả của chiến tranh thì Pol Pot lại gây tội ác đối với đồng bào ta ở biên giới Tây Nam, Lữ đoàn Công binh 7 một lần nữa bước vào chiến đấu và phục vụ chiến đấu; kề vai sát cánh cùng các đơn vị bạn đánh bại các đợt xâm lấn, bảo vệ vững chắc biên giới Tây Nam Tổ quốc và giúp bạn đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot. Với những chiến công đặc biệt xuất sắc trong Chiến dịch biên giới Tây Nam, làm nhiệm vụ quốc tế, ngày 20-12-1979, Lữ đoàn vinh dự được phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân lần thứ hai, Tiểu đoàn 2 và Đại đội 10 cũng được tặng danh hiệu cao quý này.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, trước yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ) bảo vệ biên giới phía Bắc, cùng với đội hình của Quân đoàn 3, tháng 6-1979, Lữ đoàn Công binh 7 được lệnh hành quân ra biên giới phía Bắc làm nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới. Đến ngày 2-11-1980, thực hiện Quyết định của Bộ Quốc phòng, Lữ đoàn Công binh 7 được tổ chức biên chế thành Trung đoàn Công binh 7. Năm 1987, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu, SSCĐ bảo vệ biên giới phía Bắc, Trung đoàn Công binh 7 trong đội hình của Quân đoàn 3, hành quân vào Tây Nguyên.
Trở lại Tây Nguyên, được cấp ủy, chính quyền địa phương và đồng bào các dân tộc tin tưởng, đùm bọc, giúp đỡ, Trung đoàn Công binh 7 đã phát huy truyền thống cách mạng, lập nhiều chiến công mới. Ngày 13-1-2003, Trung đoàn vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân trong thời kỳ đổi mới. Và tháng 6-2013, Bộ Quốc phòng quyết định tổ chức lại Trung đoàn Công binh 7 thành Lữ đoàn Công binh 7.
Chất lượng huấn luyện, trình độ SSCĐ của Lữ đoàn không ngừng được nâng lên, từ năm 2016 đến nay, Lữ đoàn đã 5 lần được Bộ Quốc phòng công nhận “Đơn vị huấn luyện giỏi”; tham gia diễn tập, hội thi, hội thao ở các cấp đều hoàn thành tốt nhiệm vụ, đạt thành tích cao. Đảng bộ Lữ đoàn luôn được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, gắn với xây dựng Lữ đoàn vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Đặc biệt, bên cạnh nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ, xây dựng đơn vị, Lữ đoàn Công binh 7 luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác dân vận với phương châm “Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương và các lực lượng trên địa bàn đẩy mạnh Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, giúp nhân dân xây dựng nông thôn mới, xóa bỏ hủ tục lạc hậu, giảm nghèo bền vững, góp phần làm sáng đẹp văn hóa Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới.
Trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành, với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế và trong thời kỳ đổi mới, Lữ đoàn Công binh 7 không chỉ 3 lần được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân mà trong Lữ đoàn có 4 tập thể, 2 cá nhân cũng được tặng danh hiệu này, trong đó, Đại đội 4 được tặng hai lần. Ngoài ra, Lữ đoàn còn được tặng thưởng 26 Huân chương Quân công, 8 Huân chương Chiến công các hạng; Nhà nước Campuchia tặng thưởng Huân chương Ăng-co; nhiều năm liền được Chính phủ, Bộ tư lệnh Quân đoàn tặng cờ đơn vị dẫn đầu trong Phong trào Thi đua Quyết thắng…
Truyền thống vẻ vang của Lữ đoàn Công binh 7 trong suốt 60 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành với 10 chữ vàng “Quyết thắng-sáng tạo-tự lực-đoàn kết-kỷ luật” sẽ được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ hôm nay và mai sau kế tục, phát huy. Sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ nhiệm vụ gì khi Tổ quốc và nhân dân cần; xứng đáng là lớp kế tục sự nghiệp cách mạng, giữ vững và phát huy phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ, góp phần tô thắm thêm truyền thống “Mở đường thắng lợi” của Bộ đội Công binh Anh hùng.