Tôi chào đời tháng 12 năm 1954, khi hòa bình vừa lập lại ở miền Bắc vì vậy mà được đặt tên là Thanh. Cho tôi cái tên ấy, cha tôi là nhà văn Sao Mai của miền quê Phú Thọ mong ước con trai mình sẽ được sống một cuộc đời hạnh phúc trong hòa bình. Thế nhưng, như bao nhiêu người khác cùng thế hệ, tôi chưa kịp qua hết tuổi thơ đất nước lại đã bước vào thời chiến.

Mùa xuân 1974, tôi nhập ngũ. Tháng 11 cùng năm thì hành quân vào đến Kon Tum và được điều về Trung đoàn 24, Sư đoàn 10. Do vậy tôi thuộc lượt tân binh cuối cùng từ Bắc vào bổ sung cho Mặt trận B3. Như để bù lại cho sự đi sau so với lớp đàn anh, tôi đã bước vào trận thử lửa đầu tiên đời bộ đội trong đội hình Đại đội 2 là mũi nhọn xung kích mở cửa của Sư đoàn 10 trong trận Buôn Ma Thuột.

Bộ đội Sư đoàn 10 tiến công đánh chiếm  sân bay Tây Sơn Nhất sáng 30-4-1975. Ảnh tư liệu

Đêm ngày mồng 9 rạng mồng 10 tháng 3 năm 1975 quân ta bí mật vào chiếm lĩnh trận địa. Dẫn tổ chúng tôi vào đào hầm là anh Bùi Văn Bịn, Tiểu đoàn phó, tổ trưởng là anh Động. Cùng tổ gồm có: Động - Thanh - Chón - Hướng - Việt. Năm thằng chúng tôi lặng lẽ đào. Đúng 2 giờ, pháo ta lên tiếng. Thị xã Buôn Ma Thuột vừa lúc nãy ánh điện còn chói lòa, giờ tắt ngấm, chỉ có đạn và lửa. Đạn ngoài bay vào, đạn trong bay ra, lửa cháy đỏ đất, đỏ trời. Khoảng 6 giờ kém, anh Bịn chỉ thị cho tôi và Việt: “Hai đồng chí là chiến sĩ cắm cờ chuẩn, Việt số 1, Thanh số 2. Có lệnh tôi, Việt chạy lên cắm cờ cách chỗ này 30m, chỗ đống mối kia, thẳng tay tôi chỉ. Việt không cắm được thì Thanh lên thay. Cửa mở có mở đúng hướng không là do người cắm cờ chuẩn. Hai đồng chí nghe rõ chưa?”. Cả hai chúng tôi đồng thanh đáp “Rõ!”. Tôi cầm một cờ, Việt cầm một cờ. Lá cờ rộng khoảng 2m2, cán làm bằng cây le dài 1,6m. Tôi và Việt dựng cờ cạnh hầm và chờ lệnh. Đúng 6 giờ anh Bịn hô: “Việt, cắm cờ!”. Đồng loạt súng nổ, trong ngoài đỏ lửa. Địch dữ dội bắn chặn, thẳng hướng đạn bay vào hầm tôi như mưa, đỏ lửa đường Việt chạy. Chúng tôi cũng nổ súng mãnh liệt chi viện cho Việt. Hoàng Quốc Việt người Tam Nông, anh lính mới 74 đã cắm cờ chuẩn thành công. Anh chạy về, lao vào lòng tôi. Tôi vội sờ người Việt, may thay máu không đổ. Việt ngồi đây lành lặn thở hổn hển. Tôi quấn lá cờ chuẩn của tôi lại, buộc cho nó cái quai đeo ra sau lưng. Tôi có ngọn cờ từ đấy... Tôi ôm bộc phá ống dài 1,2m lao lên khỏi hầm cách vài mét, nằm đợi đến lượt mình. Tôi ngước nhìn. Đạn pháo, đạn bắn thẳng, mìn nổ, bộc phá nổ, khói lửa mịt mù. Ngọn cờ chuẩn Việt cắm vẫn bay phấp phới. Rồi đến lượt, tôi lao đi, đút bộc phá vào hàng rào và điểm hỏa, quay đầu chạy lùi về phía sau khoảng 10m nằm xuống. Bùng lửa, bộc phá của tôi đã nổ. Tôi nã AK chi viện cho người sau đánh tiếp. Một lúc cửa mở thông. Xe tăng, xe bọc thép, bộ binh lần lượt mà mãnh liệt ào lên xung phong.

Anh Nguyễn Đình Thi, lính Mậu Thân 68, “bê” phó b2 xuống dẫn tiểu đội tôi tiến lên vào khu gia binh rồi đánh tạt xuống kho Mai Hắc Đế. Anh Bịn, Tiểu đoàn phó, anh Thiện, Đại đội phó đều bị thương. Tất cả gần 10 người, cả tổ trưởng Động của tôi cũng hy sinh. Chỗ này chỉ cách cột cờ kho Mai Hắc Đế khoảng 150m về phía Tây Bắc. Còn anh Thi cùng một số anh em đánh lạc xuống khu B. Nhìn lại chỉ còn 4 người: Tôi, Chón, Mùi và Dầm. Vừa đếm xong lại thấy Dầm ngã xuống. Tôi cúi xuống băng vết thương cho Dầm. Chúng tôi quyết tâm: “Còn ba thằng cũng đánh!”. Mùi hỏi: “Ai chỉ huy?”. Tôi bảo: “Tao chỉ huy!”. Mùi giữ B41, Chón giữ B40, tôi AK. Tôi cõng Dầm ra phía sau, địch bắn theo như vãi đạn. Vừa đặt Dầm nằm xuống, ngẩng đầu lên tôi thấy một cái tăng T54 đang một mình lừ lừ tiến tới. Mừng quá tôi chạy lại vẫy vẫy chiếc xe tăng theo mình. Chiếc T54 “ngoan ngoãn” theo tôi luôn. Mùi và Chón chạy lại, và thế là ba thằng chúng tôi cùng chiếc tăng đơn độc ấy dàn hàng ngang đánh thọc vào kho Mai Hắc Đế. Lính xe tăng quát không nghe thấy tiếng. Tôi bèn rút lá cờ chuẩn sau lưng ra chỉ huy. Tôi cầm cờ chỉ vào cái tháp nước, rồi phất cờ xuống hô “Bắn!”. Tăng lùi lại một quãng ngắn. Họng pháo lóe lửa. Tháp nước nổ tung. Tôi hét lên “Giỏi lắm! Hoan hô lính tăng!”. Cả ba thằng bọn tôi cùng cười vang.

Tiến đến cột cờ kho Mai Hắc Đế, thấy địch đã bỏ chạy hết, tôi bèn ra lệnh rút lui. Chúng tôi dẫn xe tăng quay lại cửa mở, để chốt giữ và làm công tác tử sĩ. Lúc này khoảng 11 giờ trưa, súng cũng bớt nổ chỉ còn máy bay và pháo phòng không đấu nhau là chính. Tôi tìm chỗ cho chiếc T54 nấp và giao cho nó cảnh giới, còn tôi và Mùi, Chón thu gom thương binh.

Giao thương binh xong, chúng tôi vừa ngồi xuống, bóc lương khô ra chưa kịp nhá, bỗng thấy đạn cày vào miệng hầm chíu chíu. Ba thằng ngóc đầu lên quan sát. Tôi thấy 2 tăng, 2 bọc thép, nhưng là T54 và K63 của ta! Sao chúng không có cờ xanh đỏ ở ăng ten?  Và sao lại cứ nhằm vào bọn tôi mà nhả đạn thí mạng? Tôi buông AK xuống, vớ lấy khẩu B41, Mùi cũng B41, Chón B40. Cả ba giương súng chờ đợi. Tôi phân công: “Tao bắn cái tăng đi đầu, Chón diệt cái ở giữa, Mùi bắn thằng cuối (xe K63), thằng còn lại cùng nạp đạn bắn nốt. Không cho nó thoát, nhưng dứt khoát phải đợi lệnh tao mới được nổ!”. Cả 4 chiếc xe xông thẳng vào chỗ chúng tôi, đi đến đâu chúng thi nhau nhả đạn tới đó. Tôi ước lượng cự ly 200m - 150m - 100m - 70m, Mùi hét: “Bắn nhé?”. Tôi im lặng, do dự. Thú thật lúc ấy tôi hoang mang vô cùng. Càng gần càng rõ là xe của ta, sao nó cứ bắn mình? Mỗi lúc một gần. Bỗng nghĩ đến ngọn cờ chuẩn sau lưng mình, tôi vội giơ lên vẫy. Súng im bặt. Cánh lính tăng huơ mũ vẫy vẫy. Thật hú vía, chút nữa quân ta đánh quân mình. Cánh lính ấy nhảy xuống ôm bọn tôi xin lỗi. Họ bảo vì lá cờ ba sọc trên cột cờ kho Mai Hắc Đế làm họ nhầm tưởng đó là sở chỉ huy của địch nên cứ nhằm nó mà tấn công, không ngờ bọn tôi đã dứt điểm nó rồi. Tôi hối tiếc vì sáng đã không hạ cái lá cờ ấy xuống, cho nên mới xảy ra cơ sự vậy. Nhưng vẫn còn may. Nhờ lá cờ chuẩn số 2 của tôi mà chúng tôi đã không bắn nhầm nhau. Anh chỉ huy đoàn xe tăng của bạn xin ở lại cùng bọn tôi vì họ mất liên lạc và cũng sắp tối rồi. Bọn tôi đồng ý ngay. Thế là chốt của chúng tôi có 3 xe tăng, 2 bọc thép, tối nay giữ cửa mở vững mạnh vô cùng.

Lúc này khoảng 6 giờ chiều, súng vẫn nổ, máy bay của địch bay trên đầu kêu gọi Việt cộng đầu hàng. Mặc nó, việc ai người nấy làm. Gần tối, bọn tôi bắt được một tù binh ở ngay gần cửa mở. Tôi trói anh ta lại và cho ngồi dưới hầm với mình, vì tối rồi, không giao được cho phía sau nữa. Tôi nhường nửa lương khô của mình cho anh ta chén. Của đáng tội, tôi định tha, nhưng lại sợ nhập nhoạng thế này anh ta dễ dàng ăn đạn chết oan, nên đành thôi…

Đến gần tối Trung đội phó Thi tìm thấy chúng tôi. Anh chỉ định tôi là tiểu đội trưởng tiểu đội 5. Anh Thi ở cùng hầm với bọn tôi và trực tiếp chỉ huy. Anh thông báo vắn tắt: “Anh Oánh, Tiểu đoàn trưởng hy sinh rồi. Quân ta đã làm chủ vòng ngoài. Đêm nay củng cố lại lực lượng. Mai tiếp tục tấn công”.

Tôi thấy đói, khát, mệt mỏi rã rời chân tay. Đêm đen và im ắng. Tôi bảo Mùi và Chón cảnh giới để tôi đi tìm cái ăn. Lùng kiếm một hồi tôi mang về hầm được một can nước đầy, vài cái bắp cải, mấy củ su hào, vài hộp thịt. Tôi bảo Mùi luộc rau, còn tôi đi kiểm tra các chỗ gác, nhất là chỗ xe tăng. Kiểm tra xong tôi về hầm tranh thủ ngủ… Mùi bê ra một mâm rau luộc đầy ú ụ. Tôi sáng mắt lên, cả tiểu đội sướng mê, chuẩn bị chén (chả là vì gần 1 năm bọn tôi không được ăn rau mà). Nhưng anh Thi ra lệnh “Tấn công”. Tôi bảo “Ăn đã”, anh Thi quát: “Không ăn! đi ngay”. Tôi cầm súng khoác gùi, đeo cờ chuẩn sau lưng dẫn tiểu đội lên, bỏ lại mâm rau luộc đầy ú cho tay tù binh. Anh Thi tiến cùng tiểu đội tôi, anh an ủi: “Đánh xong, ta quay lại ăn chưa muộn”.

Chúng tôi cùng xe tăng đánh vào khu chỉ huy Liên đoàn biệt động. Đến đây thì anh Vân, Trung đội trưởng bị thương, anh Thi toàn quyền chỉ huy trung đội. Chúng tôi xông vào Sở chỉ huy của địch chẳng thấy tên nào. Vòng ra phía sau tôi và Chón nhìn thấy một hầm ngầm. Gọi hàng ba lần chẳng tên nào ra, tôi điên tiết chập hai quả thủ pháo làm một rồi điểm hỏa và tọng vào miệng hầm. Thế là xong sở chỉ huy của địch.

Chợt chúng tôi nghe thoáng thấy tiếng khóc. Nhìn sang phía bên kia con đường dọc qua Sở chỉ huy của địch thấy hai đứa bé chạy ngã dúi dụi, vừa khóc vừa gọi mẹ trong lúc lửa đạn hai bên trùm cả mặt đường. Anh Thi lệnh: “Thanh chạy sang cứu hai đứa!”. Tôi đeo súng ra sau lưng cúi người xuống băng qua con đường nhựa, giữa hai làn đạn. Cả trung đội nổ súng yểm trợ cho tôi. Đến nơi tôi cắp hai đứa trẻ vào nách chạy vụt trở lại, nhảy tọt vào lô cốt gần đấy. Tôi nhìn: Hai đứa bé gái, một chừng lên 5, một chừng lên 7, một đứa bị một viên đạn AR15 xiên qua giữa lòng bàn tay, một đứa bị viên khác xiên qua bắp thịt cánh tay. Tôi và anh Thi băng lại cho chúng. Tôi hỏi “Mẹ đâu?”. Hai đứa mếu máo. Tôi đi tìm được gói kẹo cao su đưa cho chúng ăn, con chị khôn hơn, nhai xong thì nhả bã, còn con em thì nuốt tất, tôi bảo nó nhè ra, nó làm theo và không chảy nước mắt nữa.

Anh Thi giao hai đứa trẻ cùng một tù binh bị thương cho bộ phận quân y. Bọn tôi lại nổ súng tiếp tục đánh. Trong khói bom đạn tôi đã nhìn thấy phía xa bên tay trái dòng chữ “Bộ tư lệnh Sư đoàn 23”. Đây rồi, mục tiêu chủ chốt mà bọn tôi từng được phổ biến đã hiện lên ở phía trước. Tôi sung sướng quá muốn hét lên thật to. Anh Thi ra lệnh: “Thanh cắm cờ lên cổng!”. Hướng công kênh tôi trèo lên cắm ngay ngọn cờ vào giữa cái cổng đồ sộ của Sư 23. Cắm xong tôi nhảy ào xuống. Hướng và tôi mỗi thằng đứng áp vào một bên cổng bắn yểm trợ cho cả đại đội xung phong. Lúc ấy khoảng 11giờ trưa ngày 11-3-1975. Chừng 30 phút sau anh Thi ra thông báo “Ta làm chủ hoàn toàn trận địa, Sư bộ 23 đã bị tiêu diệt”. Tôi cười, lôi nước ra uống.

Ngày hôm sau chúng tôi được lệnh tiếp tục đánh phát triển theo đường 21 xuống đồng bằng. Anh Thi bảo: “Rút cờ xuống”, tôi trèo lên thu lấy lá cờ. Tháo cán ra, tôi gấp cờ lại đút vào gùi. Tôi vẫn giữ lá cờ ấy cho đến tận năm 1977. Một lần về thăm cô ruột mình ở Nam Định, chẳng có gì làm quà tôi bèn lấy lá cờ ấy ra, tặng cho cô. Còn ngọn cờ chuẩn số một cắm ở cửa mở tôi không rõ ai giữ nữa…

TÂN KHẢI THANH

(Thân tặng các bạn chiến đấu c2, d4, e24, Sư đoàn 10 Anh hùng)