QĐND - Cuối năm 1959, đầu 1960, Mỹ-Diệm mở hàng chục trận càn lớn vào các làng xã vùng bắc Đường 9, gom dân lập ấp chiến lược phá vỡ nhiều cơ sở cách mạng. Cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam và ở vùng Nam Lào đòi hỏi phải có sự cung cấp về vật chất kỹ thuật thì mới có thể giành thắng lợi. Sau Hội nghị Trung ương 15, thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, tháng 5-1959, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập tuyến giao liên quân sự để đưa đón cán bộ, bổ sung lực lượng, cơ sở vật chất thiết yếu cho chiến trường Trị Thiên và Khu 5.
Thời gian đầu tuyến giao liên quân sự dựa vào đường dây thống nhất để thực hiện nhiệm vụ. Tổ chức thành 9 trạm giao liên. Trạm đầu nhận hàng tại Khe Hóa (Quảng Bình), trạm cuối tại Tà Riệp, phía bắc A Sầu (Thừa Thiên-Huế). Cuối năm 1959, Tiểu đoàn 301 đã thực hiện thành công những chuyến hàng đầu tiên cho chiến trường Liên khu 5 với 1.700 khẩu súng các loại. Từ năm 1960 đến 1964, tuyến đường 559 liên tục được mở rộng. Hình thức vận tải trên tuyến đường cũng được nâng cấp từ gùi thồ tiến tới vận tải một phần bằng cơ giới. Đến thời điểm này, Đoàn 559 đã mở được gần 2000km cả đường bộ và đường sông. Địa bàn hoạt động được mở rộng từ tây Quảng Bình đến tận ngã ba biên giới Đông Dương. Từ năm 1965 đến 1968, mặc dù địch ngăn chặn quyết liệt nhưng ta vẫn mở mới thêm 900km, nâng tổng chiều dài con đường lên 2.900km. Mặc dù giai đoạn này địch đánh phá gấp 7,5 lần nhưng ta vẫn chi viện cho chiến trường gấp 12,6 lần so với năm 1966. Tổng chi viện cho chiến trường đạt 96.000 tấn, bảo đảm cho hơn 200.000 lượt cán bộ, chiến sĩ hành quân vào chiến trường. Không những thế, lực lượng trên đường Trường Sơn còn bắn hạ 291 máy bay Mỹ, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 4.840 tên địch.
Từ năm 1969 đến 1973, Mỹ tiếp tục tăng cường đánh phá tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn bằng B-52 và các loại máy bay chiến thuật. Riêng trong năm 1969-1970, máy bay của Mỹ hoạt động tới 140.622 lượt chiếc, trong đó có 4.580 lượt chiếc B-52. Địch đã thả xuống tuyến đường hơn 3 triệu quả bom phá, gần 41 nghìn quả bom từ trường và hàng chục nghìn quả bom cháy, bom bi các loại. Thế nhưng con đường vẫn như có phép màu, tiếp tục vươn sâu, tỏa rộng vào chiến trường. Đến cuối năm 1972, tổng tuyến đường đã mở lên tới 8.310km. Trong đó có gần 2.900km đường kín có thể chạy ô tô cả ban ngày và hơn 3.500km đường vòng tránh. Lúc này binh khí kỹ thuật vào chiến trường đã có thể cơ động trên đường riêng. Từ mùa khô năm 1972, ta đã mở thêm 2.346km vào sâu trong các chiến trường, bảo đảm khi các chiến dịch mở ra thì có thể tạo chân hàng chi viện bằng ô tô tới gần khu vực tác chiến. Mùa khô năm 1973, ta mở thêm 2.920km và năm 1974 mở tiếp 5.560km. Tổng cộng đến cuối năm 1974, tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh đã mở mới được 16.790km, với khối lượng đào đắp lên tới hơn 25,5 triệu mét khối đất đá. Cùng với hàng nghìn ki-lô-mét đường cải tạo đã khiến tuyến đường được kéo dài tổng cộng gần 20.000km. Toàn bộ tuyến đường có 6 trục dọc, 13 trục ngang và hàng trăm đường vòng tránh, chạy suốt từ điểm tiếp giáp miền Bắc xã hội chủ nghĩa (Quảng Bình) đến tận Lộc Ninh (Bình Phước). Cùng với đó là hai tuyến đường ống xăng dầu chạy dọc Đông và Tây Trường Sơn dài hơn 1.900km. Tuyến đường vận tải chiến lược thực sự như một trận đồ bát quái trên Trường Sơn khiến Mỹ-ngụy không thể đánh phá nổi. Tuyến đường là một kỳ tích trong kháng chiến chống Mỹ của quân và dân ta. Tuyến đường cùng với các lực lượng hoạt động trên tuyến đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của dân tộc ta.
TRẦN KIM HÀ