QĐND Online – Thực hiện chủ trương xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự (KH-CNQS)- Bộ Quốc phòng, đã kịp thời triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều chủ trương, biện pháp và đến nay đã đạt được những kết quả tích cực. Thiếu tướng Đoàn Nhật Tiến, Giám đốc Viện KH-CNQS đã chia sẻ với phóng viên Báo QĐND Online một số vấn đề xoay quanh nội dung này…
 |
Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Thượng tướng Trương Quang Khánh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng tham quan các thiết bị quang-điện tử do Viện KH-CNQS nghiên cứu, thiết kế, chế tạo. Thiếu tướng Đoàn Nhật Tiến (thứ 2 từ trái qua), giới thiệu với thủ trưởng Bộ Quốc phòng tới tham quan. Ảnh: Văn Đức chụp tháng 12-2012
|
Phóng viên (PV): Thưa đồng chí Giám đốc Viện KH-CNQS, từ sau Đại hội XI của Đảng đến nay, Viện ta đã tham gia vào quá trình hiện đại hóa Quân đội như thế nào?
Thiếu tướng Đoàn Nhật Tiến: Trước hết phải nói về công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ này. Ngay sau Đại hội Đảng bộ toàn quân lần thứ IX, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ủy Viện KH-CNQS đã tiến hành điều chỉnh một số mục tiêu, nhiệm vụ trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Viện lần thứ III cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ thực tế của Quân đội cũng như của Viện.
Chúng ta đã biết, thực hiện tiến trình hiện đại hóa Quân đội, các lực lượng như Phòng không-Không quân, Hải quân, Tác chiến điện tử, Thông tin liên lạc… đã được Đảng, Nhà nước quan tâm, đầu tư nhiều loại vũ khí, trang bị kỹ thuật (VK-TBKT) mới và hiện đại. Yêu cầu đặt ra hết sức cấp thiết là các lực lượng nói trên phải nhanh chóng quản lý, khai thác tốt và phát huy đầy đủ các tính năng kỹ, chiến thuật của các VK-TBKT đã được mua sắm. Muốn vậy, các đơn vị phải có đội ngũ cán bộ kỹ thuật có khả năng, có trình độ để thực hiện nhiệm vụ này. Từ thực tế đó, Viện KH-CNQS xác định nhiệm vụ xuyên suốt là phải tham gia đào tạo nguồn nhân lực, trang bị kiến thức, kỹ năng cho bộ đội khai thác có hiệu quả các loại VK-TBKT nói trên và từng bước tự chủ đảm bảo kỹ thuật, chế tạo các loại vật tư có hàm lượng công nghệ cao để thay thế.
Cùng với đó, công tác huấn luyện trên các loại VK-TBKT mới và hiện đại cũng đặt ra những yêu cầu hết sức khắt khe về quy trình huấn luyện, cũng như đòi hỏi một lượng vật chất tiêu hao rất lớn. Bởi vậy, Viện đã tập trung nghiên cứu những sản phẩm liên quan đến huấn luyện như vật tư, khí tài, linh kiện thay thế, đặc biệt là đối với các tổ hợp tên lửa, máy bay, tàu chiến... Viện cũng đã xây dựng các đề tài nghiên cứu liên quan đến việc xây dựng các hệ thống huấn luyện mô phỏng trang bị cho các đơn vị, dựa trên nền công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa và công nghệ điện tử mới nhất.
PV: Ngoài kết quả đạt được trong hỗ trợ các đơn vị tiếp thu, quản lý, khai thác có hiệu quả các loại VK-TBKT mới và hiện đại như đã nói, đồng chí có thể cho biết thêm một số nhiệm vụ khác đã được Viện triển khai?
Thiếu tướng Đoàn Nhật Tiến: Trong những năm qua, Viện KH-CNQS xác định luôn phải giữ vai trò hạt nhân trong hỗ trợ cho công nghiệp quốc phòng, trong đó có nhiệm vụ triển khai công nghệ để sản xuất những vũ khí mới cho quân đội; phối hợp với các quân chủng cải tiến các loại VK-TBKT, như tên lửa C-125, ra đa P-18, cải tiến số hóa các loại ra đa cảnh giới bờ biển. Ngoài ra, Viện còn hỗ trợ các đơn vị trong việc mua sắm VK-TBKT mới bằng việc giám định, đánh giá về trình độ công nghệ…
Một nhiệm vụ hết sức quan trọng khác được Viện KH-CNQS tập trung thực hiện, đó là đẩy mạnh nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm bảo đảm cho bộ đội hoạt động trong các điều kiện huấn luyện, tác chiến khắc nghiệt, như thức ăn dạng tuýp (đã đưa vào sử dụng cho Bộ đội Hải quân và Bộ đội Đặc công); hệ thống lọc nước cơ động phục vụ cho các đơn vị nhỏ lẻ, hoặc tập thể đến cấp tiểu đoàn, đặt trên xuồng, ô tô và có thể mang vác bộ; hệ thống chuyển hóa nước biển thành nước ngọt bằng sức người, trong điều kiện cấp cứu, khi xảy ra các sự cố ở trên biển; thực hiện nhiệm vụ chống biến đổi khí hậu và tránh tác động của môi trường đối với hoạt động quân sự và VK-TBKT, với việc đưa ra chu trình và công nghệ bảo quản mới với vật liệu hoàn toàn của Việt Nam, đồng thời tạo ra công nghệ sản xuất các chất xử lý môi trường trong hoạt động quân sự và sản xuất quốc phòng.
Yêu cầu huấn luyện, tác chiến đã và đang có những bước phát triển mới, nên Viện KH-CNQS còn tổ chức triển khai nghiên cứu, thiết kế, chế tạo ra các trang bị mới phục vụ tác chiến ban đêm, từ trang bị cho cá nhân đến trang bị đi kèm các loại súng, pháo, xe tăng, xe thiết giáp.
Có thể nói, sau 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, hoạt động của Viện đã chuyển mạnh theo hướng đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng nhằm tạo ra sản phẩm cuối cùng phục vụ cho hoạt động quân sự.
 |
|
Thiếu tướng Đoàn Nhật Tiến. Ảnh: Hải Hà.
|
PV: Vậy sau 4 năm thực hiện Nghị quyết của các cấp, đồng chí có thể đối chiếu kết quả cụ thể mà Viện đạt được so với mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết của Đảng bộ Viện?
Thiếu tướng Đoàn Nhật Tiến: So sánh với những mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết Đại hội lần thứ 3 của Đảng bộ Viện, những kết quả đạt được tính đến thời điểm hiện nay có thể gói gọn trong cụm từ: “Gấp nhiều lần”.
Trước hết, nó thể hiện ở chỗ, số sản phẩm được tạo ra gấp nhiều lần so với Nghị quyết đã nêu, cả về chủng loại và số lượng.
Tiếp đó, các sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao hơn, tính ứng dụng cao hơn so với mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết, mà hệ thống tên lửa phá rào là một ví dụ.
Một điểm khác cần nói đến, đó là các sản phẩm được xác định trong Nghị quyết chưa có tính ứng dụng cao, thì nay các sản phẩm đã được ứng dụng ở nhiều đơn vị quân đội. Nhiều sản phẩm được Bộ Quốc phòng giao Viện nghiên cứu, đã sản xuất hàng loạt, phục vụ đời sống, huấn luyện, SSCĐ của bộ đội. Có thể dẫn một ví dụ như: Trước đây, Viện chỉ xác định sản xuất hệ thống điều khiển nổ từ xa với quy mô nhỏ lẻ, còn phải phát triển tiếp, thì đến nay, đây là sản phẩm được “phổ cập” trong huấn luyện, diễn tập của các đơn vị toàn quân (hay hệ thống bia được điều khiển từ xa đã trang bị phổ biến cho các trường bắn trong toàn quân). Một ví dụ khác là từ khi các tổ hợp vũ khí hiện đại như tổ hợp tên lửa S-300, tàu hộ vệ tên lửa…được trang bị cho quân đội, Viện đã triển khai nghiên cứu, thử nghiệm và chế tạo thành công các linh kiện, phụ tùng thay thế cung cấp cho các đơn vị. Nói thêm, nếu không tự sản xuất được, chúng ta phải nhập khẩu từ nước ngoài, vừa rất tốn kém, vừa khiến chúng ta bị động.
PV: Thưa đồng chí, trong thời gian tới, Viện KH-CNQS xác định sẽ hướng đến những sản phẩm mục tiêu nào?
Thiếu tướng Đoàn Nhật Tiến: Hiện nay, Viện KH-CNQS đang xây dựng định hướng nghiên cứu và sản phẩm mục tiêu cho giai đoạn 2015-2020. Trong đó, xác định rõ một số sản phẩm mục tiêu sau:
Thứ nhất, phải tạo ra được sản phẩm mang thương hiệu quốc gia, đó là ra đa cảnh giới biển, quản lý ở cự ly 40 hải lý trở vào, để trang bị cho các nhà giàn DK1, tuyến đảo, các đảo ven bờ.
Thứ hai, phải nội địa hóa một số sản phẩm, với cách dựa trên thiết kế đã có, tạo dựng công nghệ, sử dụng các máy móc đã được trang bị để triển khai sản xuất.
Thứ ba, làm chủ và bàn giao cho các đơn vị quân đội chương trình hiện đại hóa xe tăng, xe thiết giáp, để các loại vũ khí này có đủ điều kiện tác chiến trong điều kiện ban đêm; song song với đó là việc trang bị hệ thống quang-điện tử cho nhiều loại vũ khí đánh đêm khác.
Thứ tư, mở rộng việc xây dựng các hệ thống huấn luyện mô phỏng, phục vụ quá trình huấn luyện của các đơn vị như PK-KQ, Hải quân…và một số lực lượng khác.
Thứ năm, sản xuất được các loại vật tư phục vụ quá trình sản xuất quốc phòng; tiếp tục phối hợp với Cục Quân y, mở rộng chương trình cung cấp trang thiết bị quân y dã chiến, với các thiết bị hiện đại có thể cấp cứu thương binh trong điều kiện dã chiến, không phải đưa về các bệnh viện…
Ngoài ra, sản xuất các sản phẩm lưỡng dụng, vừa phục vụ nền kinh tế quốc dân, vừa phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng cũng là một trong những nội dung nhiệm vụ được Viện KH-CNQS quyết tâm triển khai thực hiện trong thời gian tới.
PV: Xin cảm ơn đồng chí!
Thực hiện: HOÀNG HÀ