QĐND - Sau chín năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời đặt dưới sự thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Âm mưu của đế quốc Mỹ là chia cắt lâu dài đất nước ta, thiết lập chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ, xoá bỏ phong trào cách mạng ở miền Nam để tiến đánh miền Bắc. Trong không khí nhân dân cả nước sục sôi căm thù đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, Trung ương Đảng ra Nghị quyết 15, xác định giải phóng miền Nam là nhiệm vụ chung, vì lợi ích và yêu cầu chung của cả nước.
Ngay sau Hội nghị 15 của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị chủ trương lập đơn vị vận tải quân sự dọc Trường Sơn (đoàn 559) và đơn vị vận tải vượt Biển Đông (đoàn 759) để vận chuyển vũ khí, trang bị, cơ sở vật chất và nguồn lực cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập đoàn 759, đoàn vận tải thủy có nhiệm vụ chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển. Suốt 14 năm, mọi hoạt động của “Đường Hồ Chí Minh trên biển” được giữ bí mật tuyệt đối.
Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, "Đường Hồ Chí Minh trên biển" hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, phóng viên Báo Quân đội nhân dân mới có điều kiện tìm hiểu, gặp gỡ, viết bài về “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, về cán bộ, chiến sĩ đã hoạt động trên con đường huyền thoại đó.
Từ ngày 17-8 đến ngày 15-9-1976, 22 số ký sự "Đường mòn trên biển" của nhà báo Tư Đương được đăng trên Báo Quân đội nhân dân. Từ ký sự này, lần đầu tiên bạn đọc cả nước biết đến "Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Trong các ấn phẩm của Báo Quân đội nhân dân (Quân đội nhân dân hằng ngày, Quân đội nhân dân cuối tuần, nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng, Quân đội nhân dân điện tử), đặc biệt là trong tờ nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng (SK&NC), tờ báo làm nhiệm vụ giáo dục truyền thống, những sự kiện đáng nhớ trong 14 năm trên tuyến "Đường Hồ Chí Minh trên biển", hình tượng người chiến sĩ hoạt động trên con đường đó, ngày càng được khắc họa đầy đủ với những phẩm chất sáng ngời: Yêu nước, yêu quê hương, yêu đồng bào, đồng chí, cách mạng, kiên cường, bất khuất, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, đoàn kết, kỷ luật…
Chủ trương sáng suốt
Trong ký sự “Đường mòn trên biển” đăng dài kỳ trên Báo Quân đội nhân dân, nhà báo Tư Đương đã viết: “Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đáp ứng nguyện vọng sâu xa của nhân dân cả nước, nhất là của đồng bào miền Nam. Những cán bộ trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh ở miền Nam lúc đó vui mừng khôn xiết. Trong sự vui mừng ấy có xen vào nỗi lo: Lấy vũ khí ở đâu để xây dựng lực lượng vũ trang. Nghị quyết của Trung ương đã có hai chữ “vũ trang”, nhưng làm sao thực hiện. Ngay khi họp Trung ương xong, các đại biểu miền Nam đã gặp đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng để hỏi việc chi viện người và vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam như thế nào”. Bài báo dắt dẫn người đọc đến những chi tiết về chủ trương của Đảng ta, công tác tổ chức cụ thể và những tính toán hết sức chu đáo cho sự hình thành, lực lượng và hoạt động của đường vận tải chiến lược trên biển.
 |
Cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 Hải quân đón nhận lẵng hoa bác Tôn tặng, năm 1970. Ảnh tư liệu. |
Đồng chí Võ Nhân Huân, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó tư lệnh về chính trị Quân chủng Hải quân, nguyên là Thuyền trưởng thuộc đoàn 125, trong bài viết “Đường Hồ Chí Minh trên biển, một đóng góp quan trọng vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước” (SK&NC số 34, tháng 10-1996), đã viết: “Đầu năm 1960, điều kiện và thời cơ khởi nghĩa ở vùng nông thôn đã đến. Nhiệm vụ vận tải chiến lược phải theo kịp tình hình phát triển của chiến trường. Vũ khí cho chiến trường Nam Bộ là một đòi hỏi cấp bách của cách mạng vùng này. Con đường thuận lợi nhất cho chiến trường Nam Bộ là đường biển. Trung ương chỉ thị các tỉnh Nam Bộ chuẩn bị bến bãi và cho thuyền ra miền Bắc vừa thăm dò, mở đường, nghiên cứu phương tiện vận chuyển, vừa nếu có điều kiện thì chở vũ khí về”.
Trong bài “Chúng tôi trở về miền Nam bằng con tàu không số” (SK&NC số 13, tháng 2-1995), đồng chí Vũ Tấn Ích, Thuyền trưởng thuộc đoàn 125, kể: “Các cán bộ miền Nam tập kết được điều động làm nhiệm vụ vận tải trên biển về Hà Nội, ở nhà 83 Lý Nam Đế, do Cục II quản lý. Hằng ngày các đồng chí trong Bộ Chính trị: Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Phan Trọng Tuệ, Trần Văn Trà… đến thăm hỏi”.
Các bài “Khảo sát mở đường Hồ Chi Minh” (SK&NC số 95, tháng 10-2001), do đồng chí Đặng Bá Tiên kể; “Vào Bà Rịa” (SK&NC số 34, tháng 10-1996), do đồng chí Đặng Văn Thanh kể; “Những người đầu tiên rạch đường mòn trên biển” (SK&NC số 34, tháng 10-1996), do đồng chí Đặng Bá Tiên kể, nói đến Đảng ta, từ Trung ương đến các địa phương, đều nhất quán chủ trương mở đường vận tải vũ khí, đạn dược, hàng hoá và người vào cho chiến trường miền Nam. Trong bài “Đoàn-Kết-Đấu-Tranh-Thắng-Lợi” (SK&NC số 34, tháng 10-1996) nêu tên đoàn thủy thủ Trà Vinh ra Bắc nhận vũ khí, đi từ ngày 3-8-1961, do đồng chí Trần Thanh Lồng làm Bí thư chi bộ, đồng chí Hồ Văn In làm Thuyền trưởng, ra đến miền Bắc đã được gặp Bác Hồ và được Bác thăm hỏi ân cần.
Các bài viết đăng trên các ấn phẩm của Báo Quân đội nhân dân phản ánh rõ tình hình: Tỉnh ủy Bến Tre, nơi mở đầu phong trào đồng khởi, nơi mà từ năm 1946, đồng chí Nguyễn Thị Định vượt biển ra Bắc xin vũ khí, đã tổ chức được đội thuyền đưa ra tới miền Bắc. Sau đó, các đội thuyền của Bạc Liêu, Trà Vinh, Bà Rịa cũng lần lượt ra tới miền Bắc. Trung tuần tháng 8-1962, sau chuyến mở đường vào Nam của thuyền Bạc Liêu, do đồng chí Bông Văn Dĩa phụ trách đi trinh sát thành công, Quân ủy Trung ương thông qua nghị quyết mở đường vận chuyển chiến lược trên biển. Vậy là con đường vận tải trên biển đã mở. Bắt đầu từ đây, đoàn 759 bước vào một giai đoạn vận chuyển để làm nên con đường huyền thoại trên Biển Đông với những thành tích có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Và từ đây, lịch sử dân tộc ghi thêm một nét sáng tạo độc đáo trong cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh chống đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: “Đường Hồ chí Minh trên biển”.
Từ tháng 8-1963, Thường trực Quân ủy Trung ương quyết định giao đoàn 759 cho Quân chủng Hải quân, đồng thời giao cho Hải quân nhân dân Việt Nam nhiệm vụ trực tiếp chi viện cho chiến trường miền Nam. Đầu năm 1964, Bộ Quốc phòng ra quyết định chuyển đoàn 759 với phiên hiệu mới là đoàn 125 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân.
Từ những ngày đầu, bằng những phương tiện thô sơ, thuyền gắn máy đi dọc theo bờ biển, Hải quân nhân dân ta đã tiến lên sử dụng nhiều loại phương tiện có trang bị hiện đại, vươn rộng ra biển khơi, vượt qua nhiều vùng biển, hoạt động độc lập, dài ngày, hình thành nhiều tuyến, mở hàng chục bến bãi đến hầu hết các tỉnh ven biển miền Nam, đến tận cùng của đất nước, đến tận cửa ngõ Sài Gòn. Được sự che chở, đùm bọc của nhân dân, Hải quân nhân dân đã vận chuyển hàng trăm ngàn tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men, chở hàng ngàn lượt người cho hầu hết các chiến trường ven biển từ khu 5 đến Nam Bộ. Số lượng hàng hóa không nhiều nhưng là vũ khí, đạn dược, thuốc men, nhân lực quan trọng, đến đúng lúc, đúng thời cơ, vào những chiến trường khó khăn nhất, đã góp phần quan trọng duy trì, phát triển chiến tranh cách mạng, thực hiện đúng chủ trương của Đảng, đáp ứng được lòng mong muốn của Bác Hồ kính yêu.
Truyền thống bí mật, bất ngờ, mưu trí, dũng cảm
Trước khi đoàn 759 được thành lập, ngay từ trong kháng chiến chống thực dân Pháp, phương thức chuyên chở vũ khí, đưa người từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam đã được ta áp dụng và mang lại những kết quả khả quan. Những chuyến đi đó đã đem lại cho cán bộ, chiến sĩ đoàn 759, sau là đoàn 125, nhiều kinh nghiệm quí giá. Báo Quân đội nhân dân đăng chuyện kể của các nhân chứng về các chuyến đi này: “Từ chuyến về Đà Nẵng đầu tiên đến Đường Hồ Chí Minh trên biển” (SK&NC số 142, tháng 10-2005), “Có một đội thuyền giao thông đường HCM trên Biển Đông” (SK&NC số 91, tháng 7-2001), “Chuyến về Nam đầu tiên của tổ thuyền Phú Cường” (SK&NC số 94, tháng 10-2001)…
Trên “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, dù gặp muôn vàn khó khăn, nguy hiểm, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ của miền Nam, của Hải quân nhân dân vẫn kiên quyết ra đi và đã nêu những tấm gương mẫu mực về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đức hy sinh, sự tài giỏi, mưu trí, sáng tạo và sự vững vàng để đưa vũ khí tới bến. Những tấm gương của cán bộ, chiến sĩ: Bông Văn Dĩa, Nguyễn Văn Nhờ (Tư Mau), Nguyễn Phan Vinh, Đặng Văn Thanh, Hồ Đức Thắng, Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Đức Thắng, Vũ Tấn Ích, Hồ Đức Thạnh, Lê Văn Bảng, Nguyễn Ngọc Ấn, Dương Tấn Kịch, Đỗ Văn Bé, Nguyễn Sơn, Thôi Văn Nam, Võ Hán, Trần Hoàng Chiếu, Phạm Vạn, Nguyễn Văn Cứng, Lê Văn Thêm, Đinh Đạt, Trần Ngọc Ẩn, Lê Hồng Phước, Tăng Văn Huyền, Ngô Văn Đức, La Minh Tốt, Trần Phấn, Đỗ Văn Sạn, Nguyễn Chánh Sắc, Võ Nhân Huân, Phạm Văn Tam…được chính các nhân chứng đã làm nên con đường huyền thoại kể lại và đăng hàng chục bài.
Chuyện kể của những người anh hùng làm nhiệm vụ vận tải trên biển cho bạn đọc hiểu rõ: Giữa tháng 10-1962, tàu chở vũ khí đầu tiên của đoàn 759 vào cửa Vàm Lũng. Mấy ngày sau, đội thuyền thứ hai cập bến Cà Mau. Tiếp theo là chuyến thứ ba, thứ tư bí mật, bất ngờ chuyển vũ khí vào tận Nam Bộ. Lúc đầu, ta vận tải vũ khí vào Nam bắng tàu gỗ, sau đó chủ trương dùng tàu sắt có sức chở lớn hơn, tốc độ nhanh hơn. Ngày 17-3-1963, chiếc tàu sắt vào Rạch Láng (Trà Vinh) trước sự vui mừng, phấn khởi của những người trên bến. Trong vòng năm đầu, đoàn 759 đã đi 28 chuyến vào Nam Bộ, chở 1.318 tấn vũ khí, đạn dược cho chiến trường.
“Sự kiện Vũng Rô” xảy ra, rồi đế quốc Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, tuy phương thức vận chuyển trên biển bị lộ, địch tăng cường đánh phá ngăn chặn, nhưng ta vẫn kiên trì chủ trương vận chuyển vũ khí vào chiến trường bằng đường biển. Sự bí mật của con đường đã không còn. Cái giỏi của ta lúc này là tạo ra sự bí mật ngay giữa cái không bí mật. Đó là sự đấu trí, đấu lực của hai lực lượng trên biển.
Để ngăn chặn con đường vận tải trên biển của ta, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tổ chức thêm lực lượng để ngăn chặn từ trong bờ ra đến ngoài khơi. 40% lực lượng của hạm đội 7 được huy động vào nhiệm vụ “ngăn chặn thâm nhập bằng đường biển” từ Bắc vào Nam. So sánh lực lượng thật chênh lệch giữa ta và địch. Song lịch sử có những điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của con người. Tàu địch ken dày, tàu vận tải vũ khí vào Nam của Hải quân ta vẫn đi và vũ khí vẫn đến được những nơi cần đến.
Con đường biển nhờ tổ chức tốt vẫn giữ được bí mật, mặc dù Mỹ-ngụy tăng cường thêm tàu tuần tra trên biển, tổ chức rộng rãi mạng lưới mật vụ, do thám để theo dõi mọi động tĩnh trên biển. Công tác vận chuyển trên biển đã góp phần rất lớn vào thắng lợi của quân và dân miền Nam. Lực lượng cách mạng miền Nam đã có những đơn vị được trang bị vũ khí tốt và đã lập nên những chiến công vang dội.
 |
Đội tiếp nhận hàng của Đoàn 962 (Quân khu 9) tiếp nhận vũ khí do Đoàn tàu không số chuyển vào tại bến Rạch Mốc (Cà Mau) năm 1963. Ảnh tư liệu. |
Trong các bài viết: “Chuyến hành trình mở đường dài nhất”, Đại tá Bùi Cư, chiến sĩ báo vụ số 1 trên tàu 42 kể (SK&NC số 34, tháng 10-1996); “Chuyến khảo sát đường Hồ Chí Minh trên biển”, Thuyền trưởng Đặng Bá Tiến kể, (SK&NC số 62, tháng 1-1999); “Chuyến tàu sắt đầu tiên”, Thuyền trưởng Nguyễn Ngọc Ánh kể (SK&NC số 155, tháng 11-2006); “Đón giao thừa ở Vũng Rô”, Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh kể (SK&NC số 38, tháng 2-1997); “Con tàu 41 (do đồng chí Nguyễn Văn Một và Đặng Đình Thanh chỉ huy) vào cửa sông Ray 41 năm trước” (SK&NC số 118, tháng 10-2003); “Bến tàu không số ngày ấy, bây giờ” (SK&NC số 99, tháng 3-2002); “VT5- chiến dịch vận chuyển chi viện chiến trường” (SK&NC số 34, tháng 10-1996); “Anh hùng trên núi gặp Anh hùng dưới biển” (SK&NC số 134, tháng 2-2005); “Chở hàng chi viện đảo Cồn Cỏ” (SK&NC số 158, tháng 2-2007)…cho thấy cán bộ, chiến sĩ của ta thật anh hùng, dũng cảm và sáng tạo khi thực hiện nhiệm vụ của mình
Trong 14 năm làm nhiệm vụ vận tải trên biển, có giai đoạn, cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân gặp khó khăn, song cũng có giai đoạn giành được những thắng lợi to lớn. Báo Quân đội nhân dân đăng các bài viết về giai đoạn từ đầu năm 1964 đến đầu năm 1965 là giai đoạn vận chuyển có hiệu quả nhất của đoàn 125. Hàng chục chuyến hàng đã đi là tới bến. Trong bài viết “Một năm vận chuyển hiệu quả nhất” (SK&NC số 154, tháng 10-2006), đồng chí Nguyễn Văn Lắm, Chính ủy đoàn 125, kể: Năm 1964 và đầu năm 1965, đã có 50 tàu vào Nam, chở 2.600 tấn hàng, là năm vận chuyển hiệu quả nhất trong suốt cả thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.
Chiến thắng liên tiếp và ngày càng lớn của quân và dân miền Nam là một thực tế để Mỹ-ngụy hiểu ra rằng: Chúng đã không ngăn chặn được con đường vận tải trên bộ và trên biển của ta. Như một kết thúc có hậu cho một sự nghiệp anh hùng, đến Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, lực lượng vận tải trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam đã xuất quân với một lực lượng hùng hậu, lập nên những chiến công cuối cùng vang dội. Bài “Những chuyến tàu thần tốc vượt biển” (SK&NC số 136, tháng 4-2005), viết về đoàn 125 phục vụ các chiến dịch của quân và dân ta mùa xuân 1975, với các chuyến tàu “thế hệ thứ hai của đoàn tàu không số”. Chiến dịch mang tên T5. Đoàn đầu tiên gồm các tàu đổ bộ: 424,426,428, 430, 422 chở xe tăng, pháo pháo nòng dài, vũ khí, đạn dược, lực lượng hải quân đánh bộ... Chuyến sau gồm các tàu: 681, 684, 685, 683,…trong 12 ngày đêm chở 56 xe tăng, thiết giáp và hàng ngàn tấn vũ khí, đạn dược, các đội tàu đưa quân đi giải phóng các đảo ven biển miền Nam và quần đảo Trường Sa, tiếp thu các căn cứ hải quân ngụy: Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn, Đồng Tâm, Cần Thơ, Phú Quốc… Chỉ trong hai tháng (tháng 3 và tháng 4 năm 1975), ngoài vũ khí, xe tăng, xe thiết giáp, pháo hạng nặng, các loại vũ khí khác và đạn dược, đoàn 125 đã chở 17.373 cán bộ, chiến sĩ đi tới các chiến trường then chốt, nhất là trên biển đảo, góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của cả nước mùa xuân 1975.
Nêu cao vai trò công tác đảng, công tác chính trị
Trong các bài đăng trên các ấn phẩm của Báo Quân đội nhân dân, sự gắn bó mật thiết giữa người chỉ huy tàu với chính trị viên, cấp ủy và chi bộ, sự gắn bó giữa quần chúng với Đảng được thể hiện rất rõ. Dù hoạt động trên bờ, đi giữa biển khơi, gặp các tình huống phải đối phó với địch, hay vào đến bến dỡ hàng, ở đâu vai trò lãnh đạo của Đảng cũng được đề cao, các đảng viên trên tàu là hạt nhân đoàn kết cả con tàu hoàn thành nhiệm vụ.
Bài “6 thủy thủ Trà Vinh trên tàu không số” (SK&NC số 130, tháng 10-2004) đã kể: Trong chuyến ra Bắc, đi từ ngày 25-81961, có 6 người thì ba người là đảng viên: Hai Pháp, Tám Khương, Nguyễn Văn Inh (Hồ Đắc Thắng), đặt thành các tên Đoàn-Kết-Đấu-Tranh-Thắng-Lợi, biểu lộ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ rất cao và đã làm tròn nhiệm vụ của mình: đi tới nơi về tới chốn theo mệnh lệnh của Đảng.
Bài “Chi bộ quyết tử trên biển” (SK&NC số 85, tháng 1-2001), Đại tá Hồ Văn Kiêm kể, trên các con tàu: Tàu 165 do đồng chí Nguyễn Chánh Tâm làm Thuyền trưởng; tàu 335 do đồng chí Nguyễn Phan Vinh làm Thuyền trưởng; tàu 56 do đồng chí Nguyễn Văn Ba làm Thuyền trưởng, đồng chí Đỗ San làm Chính trị viên, đều có chi bộ đảng. Mỗi lần ra đi, các chi bộ đều ra nghị quyết xây dựng các chi bộ quyết tử, trước hết là khôn khéo, mưu trí, sáng tạo hoàn thành nhiệm vụ được giao, khi không có con đường nào khác thì sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình, không để tàu, hàng và người lọt vào tay địch. Tàu 56 chưa đưa được vũ khí vào đến nơi giao hàng thì bị địch phát hiện, nhưng đã lừa được địch, vào bến an toàn. Còn chi bộ tàu 335 ra nghị quyết hy sinh cùng con tàu khi bị tàu địch bao vây, đánh phá ác liêt, không còn con đường nào khác.
“Chuyến tàu mở đường vào bến Vũng Rô” (SK&NC số 106, tháng 10-2002), đồng chí Hồ Đắc Thạnh kể chuyện chuyến đi Vũng Rô từ ngày 10-11 đến 28-11-1964 của tàu 41 đã gặp rất nhiều khó khăn, thời tiết xấu, địch theo dõi. Trong khó khăn gian khổ, vai trò của chi bộ được đề cao, Chính trị viên Trần Hoàng Chiếu cùng Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh, Thuyền phó Hồng Lý là chi ủy của chi bộ tàu, đã làm tốt vai trò hạt nhân gắn kết 21 con người lại với nhau thành một khối để vượt qua bão tố, bom đạn địch, bảo đảm chuyến đi thành công.
“Đánh dịch trên biển Đức Phổ” (SK&NC số 34, tháng 10-1996), kể về chuyến đi của tàu C43, do đồng chí Nguyễn Đức Thắng làm Thuyền trưởng, đồng chí Trần Anh Tuấn làm Chính trị viên. Gặp địch, chi bộ tàu C43 đã ra nghị quyết phải đánh địch, phá tàu, người phải về được vùng giải phóng. Cuộc chiến đấu không cân sức trên biển, nhưng với tinh thần anh dũng tuyệt vời, cán bộ, chiến sĩ tàu C43 đã thực hiện đúng nghị quyết. Cả tàu hy sinh 3 đồng chí, bị thương 2 đồng chí, những người còn sống và bị thương vào được khu du kích.
Trong bài “Chuyến đi tìm đường vận tải mới” (SK&NC số 160, tháng 4-2007), kể về chuyến đi của tàu 42, do đồng chí Nguyễn Văn Cứng làm Thuyền trưởng, đồng chí Trần Ngọc Ân làm Chính trị viên. Ra đi từ ngày 15-10-1965, tàu vượt Long Châu, ra Hải Nam, đến quần đảo Trường Sa, qua đảo Na-tô Bắc, đảo Na-tô Nam (Phi-lip-pin), tới biển Cà Mau. Đến gần đảo Hòn Khoai thì lọt vào giữa các đội tàu của địch, nguy cơ bị lộ rất cao. Chi bộ họp bàn cách tránh địch, các đảng viên đã đưa ra nhiều sáng kiến thiết thực. Trong vòng vây của tàu địch, trên trời máy bay trinh sát luôn nhòm ngó, nhưng do cả tàu thống nhất hành động nên đã không để lộ, dần dần đưa tàu đi tới cửa Bồ Đề, vào rạch Kiến Vàng, nơi có bến bãi của ta.
14 năm ra đời và hoạt động, trên “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, gần 2000 lượt tàu đã được huy động làm nhiệm vụ chở vũ khí, đạn dược, hàng hoá, người vào miền Nam. Trong tất cả các chuyến đi đó, chuyến đi nào công tác đảng, công tác chính cũng được đặt lên hàng đầu và đó là một nguyên nhân thắng lợi của lực lượng vận tải chiến lược trên biển. Các bài viết đăng trong các ấn phẩm của báo Quân đội nhân dân đã khẳng định được điều đó.
Hy sinh quên mình vì nghĩa lớn
Trong bài “Đường Hồ Chí Minh trên biển, một đóng góp quan trọng vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước”, đồng chí Võ Nhân Huân viết: “Tập thể tàu 165 gồm 18 người trên tàu của Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm và Chính trị viên Nguyễn Ngọc Lương hy sinh đêm 1-3-1968. 14 đồng chí trên tàu 235 của Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh hy sinh đêm 27 rạng sáng 28-3-1968. Các cán bộ, chỉ huy tàu 198: Nguyễn Chuyên Nghiệp (Phó thuyền trưởng), Huỳnh Ngọc Trạch (Chính trị viên) hy sinh ngoài bến Ba Làng An. Còn nhiều những tấm gương hy sinh khác. Các anh mãi mãi sống trong tâm trí cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam”.
Bài “Chuyến đi cuối cùng của Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu” (SK&NC số 157, tháng 1-2007), kể về chuyến đi của tàu 645, do đồng chí Lê Hà làm Thuyền trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Hiệu làm Chính trị viên, vào khu 9. Ngày 14-4-1972, tàu xuất phát. Ngày 24-4, gặp tàu khu trục địch ở gần đảo Phú Quốc. Chúng bao vây, đánh phá. Cả tàu đã chiến đấu anh dũng, tất cả 16 thuỷ thủ đều bị thương. Nguyễn Văn Hiệu tổ chức cho anh em bơi vào bờ, còn đồng chí ở lại nổ tàu và hy sinh.
Bài “Tàu 69 Nhật Lệ hy sinh như thế nào?” (SK&NC số 44, tháng 8-1997) kể lại: Đầu năm 1971, tàu 69, do đồng chí Phan Xá làm Thuyền trưởng, đồng chí Đào Thảnh Thơi làm Chính trị viên, chở 200 tấn hàng, nhận nhiệm vụ rời K20 ra Vịnh Hạ Long. Ngày 7-4-1971, được lệnh vào bến Cà Mau. Tàu 69 bị 20 tàu chiến, 20 máy địch phát hiện và vây đánh. Cả tàu chiến đấu dũng cảm, 8 đồng chí hy sinh, 3 đồng chí bị thương. Chỉ huy tàu đã ra lệnh phá tàu cùng 200 tấn vũ khí.
Nhiều lần tàu cảm tử chở hàng vào Nam, cán bộ, chiến sĩ trên tàu được làm lễ truy điệu khi còn sống. Bài “Người chiến sĩ được 4 lần truy điệu” (SK&NC số 98, tháng 2-2002), viết về đồng chí Nguyễn Tài Lộc, 4 lần được truy điệu. Trong năm 1964, đồng chí đi 3 chuyến trở về an toàn. Đến chuyến thứ 4, tháng 7-1967, tàu phải phá để không rơi vào tay địch. Đồng chí bị thương nặng, dạt vào Quảng Ngãi, được du kích đưa về vùng giải phóng điều trị.
Bài “Người liệt sĩ trở về” (SK&NC số 163, tháng 7-2007), kể trường hợp đồng chí Trần Quang Phương, điều khiển tàu chở 85 tấn vũ khí vào Trà Vinh. Tàu bị địch đánh đuổi, chỉ huy tàu bố trí cho 14 đồng chí xuống tàu tìm nơi trú ẩn, Thuyền trưởng Nguyễn Văn Xá, chiến sĩ An và Trần Quang Phương ở lại phá tàu. Tàu nổ, hai đồng chí chỉ bị sức ép nhẹ, còn Phương bị thương nặng. Địch bắt được Phương, chúng đưa đồng chí về giam ở Phú Quốc, rồi Biên Hoà mà không nhận được một lời khai báo nào có giá trị. Năm 1973, thi hành Hiệp định Pa-ri, đồng chí được trao trả về cho ta sau 7 năm biệt tích, đã được công nhận là Liệt sĩ. Sau này đồng chí Trần Quang Phương là Giám đốc Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Kim Môn (Hải Dương).
Những bài báo viết về “Đường Hồ Chí Minh trên biển” đăng trong các ấn phẩm của Báo Quân đội nhân dân nêu rõ: Trên “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, Mỹ-ngụy đã huy động mọi phương tiện, vũ khí tối tân, hiện đại để đánh phá, phong toả, ngăn chặn trên biển và ven bờ với những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm nhất nhằm chặt đứt con đường vận chuyển, cô lập miền Nam, bóp nghẹt các lực lượng cách mạng. Với tinh thần vì miền Nam ruột thịt, cán bộ chiến sĩ làm nhiệm vụ vận tải quân sự trên biển đã âm thầm hy sinh tình cảm hậu phương, gia đình và bản thân, xác định đi là cảm tử, chấp nhận gian nguy, đương đầu với khó khăn, thử thách, nhưng nhất định phải đưa hàng tới bến. Mỗi chuyến đi là một cuộc đấu trí căng thẳng, quyết liệt với kẻ thù, với thiên nhiên, với mọi khó khăn thử thách…và vượt lên tất cả là phải chiến thắng chính bản thân mình, đòi hỏi cao ý chí kiên định, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm. Lúc hiểm nguy, sẵn sàng lao thẳng vào tàu địch, chiến đấu đến cùng để bảo vệ vũ khí, đạn dược, hàng hoá, giữ bí mật về chủ trương, về con đường, con tàu và bến bãi. Khi xảy ra tình huống hiểm nghèo thì thực hiện đúng phương án chiến đấu, trong những tình huống đặc biệt hiểm nghèo thì sẵn sàng hy sinh tính mạng, sẵn sàng hủy tàu, huỷ hàng để bảo vệ bí mật con đường.
Cùng với việc phản ánh những chiến công, những hy sinh, mất mát của cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm nhiệm vụ vận tải trên biển, Báo Quân đội nhân dân vẫn dành những trang viết cảm động về những cá nhân, tập thể góp sức để làm nên “Đường Hồ Chí Minh trên biển” thành huyền thoại. Đó là những người đóng những con tàu sắt trong bài “Đóng tàu trên núi, trên hè phố” (SK&NC số 17, tháng 5-1995), kể về nhà máy đóng tàu Bạch Đằng (Hải Phòng) đóng tàu cho đoàn 125. Là những người ở nơi bến đón vũ khí, đạn dược vào chiến trường: “Bến tàu không số ngày ấy, bây giờ” (SK&NC số 99, tháng 3-2002) viết về bến Lộc An, huyện Long Đất, Bà Rịa-Vũng Tàu…
Ngoài việc đăng các bài báo phản ánh chủ trương của Đảng, sự quan tâm của Bác Hồ đối với những người thực hiện nhiệm vụ đặc biệt trên biển, nhân kỷ niệm 45 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển, Báo Quân đội nhân dân phối hợp với Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tổ chức tọa đàm về tầm vóc của con đường chiến lược trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. Hơn 10 bản tham luận đã được báo cáo tại cuộc tọa đàm. Báo Quân đội nhân dân ra ngày 23-10-2006 đã tường thuật và trích đăng các bản tham luận quan trọng.
*
* *
Đã có hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam và các đơn vị khác trực tiếp hoạt động và lập nên các kỳ tích trên Đường Hồ Chí Minh trên biển. Báo Quân đội nhân dân mới chỉ phản ánh được một phần nhỏ. Đây còn là kho tàng quý giá để báo tiếp tục khai thác, đưa đến các thế hệ bạn đọc những tác phẩm báo chí ngày càng rõ hơn, đầy đủ, sâu sắc hơn những hoạt động thầm lặng, phải hy sinh nhiều, rất anh hùng mà ông, bà, cha, anh đã lập nên.
Đại tá LÊ LIÊN