QĐND - Đòn tiến công Huế-Đà Nẵng trong Đại thắng mùa Xuân 1975 là cuộc tiến công nổi dậy của quân và dân ta giải phóng các tỉnh thuộc quyền kiểm soát của Quân khu 1 ngụy, được hợp thành bởi ba chiến dịch: Chiến dịch Trị-Thiên, Chiến dịch Nam Ngãi (diễn ra đồng thời từ ngày 5 đến 26-3) và Chiến dịch Đà Nẵng (diễn ra từ 26 đến 29-3). Chỉ trong một thời gian ngắn, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 120.000 tên địch, thu 129 máy bay, 179 xe tăng-thiết giáp, 327 khẩu pháo, hơn 1000 xe quân sự…; đập tan toàn bộ hệ thống phòng thủ của Quân khu 1 ngụy, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh, trong đó có hai thành phố lớn là Huế và Đà Nẵng.
Thắng lợi to lớn và nhanh chóng của Đòn tiến công Huế-Đà Nẵng là thắng lợi chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, mà trực tiếp là của Quân khu Trị-Thiên, Quân khu 5 và Quân đoàn 2. Đây cũng là thắng lợi của những quyết định hết sức chính xác, nhạy bén, kịp thời của Tổng hành dinh và các bộ chỉ huy chiến dịch trong xây dựng quyết tâm cũng như trong điều hành chiến dịch.
Khi xây dựng Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, cơ quan chiến lược cơ bản đều thống nhất sau khi đánh Tây Nguyên, thì đòn thứ hai là Huế-Đà Nẵng; đòn thứ ba là Sài Gòn. Tuy nhiên, trong Tổng hành dinh vẫn có ý kiến cho rằng, không cần mở Chiến dịch Huế-Đà Nẵng, mà từ Tây Nguyên cứ đánh thẳng vào Sài Gòn. Cho đến cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng (ngày 18-12-1974 đến 2-1-1975), ý kiến không cần mở Chiến dịch Huế-Đà Nẵng vẫn được đưa ra. Bộ Tổng tham mưu đã kiên trì bảo vệ ý kiến phải có ba đòn tiến công, không thể từ Tây Nguyên đánh thẳng vào Sài Gòn. Trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng phải huy động sức mạnh của miền Bắc.
Như vậy, mặc dù có những ý kiến trái chiều nhưng Tổng hành dinh đã quyết định tổ chức đòn tiến công Huế-Đà Nẵng tiếp sau đòn tiến công Tây Nguyên. Thêm nữa, Bộ Tổng hành dinh quyết định chọn mục tiêu mở đầu cho cuộc Tổng tiến công là nơi sơ hở, hiểm yếu Tây Nguyên để nhanh chóng phát triển xuống đánh chiếm các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ… chia cắt chiến trường miền Nam ra làm đôi, làm rung chuyển toàn bộ thế trận của địch trên chiến trường. Đây là những quyết định hết sức chính xác tạo điều kiện tiên quyết để các lực lượng Quân khu Trị-Thiên, Quân khu 5 và Quân đoàn 2 nhanh chóng thực hiện thắng lợi đòn tiến công Huế-Đà Nẵng.
Trong thực hành tiến công cụm quân địch ở Huế-Đà Nẵng, cơ quan chiến lược cũng như các bộ chỉ huy chiến dịch đã nghiên cứu rất kỹ, đưa ra các quyết định táo bạo, chính xác, kịp thời để nhanh chóng điều động lực lượng hình thành thế chia cắt, bao vây đánh tiêu diệt lớn địch, giành thắng lợi triệt để.
Trong Chiến dịch Trị-Thiên (do Quân khu Trị-Thiên và Quân đoàn 2 tiến hành), lúc đầu có ý kiến chọn hướng tiến công chủ yếu theo trục Đường 12-Tây Huế. Nhưng nghiên cứu kỹ thực địa, Quân khu Trị-Thiên và Quân đoàn 2 đề nghị chọn hướng tiến công chủ yếu là hướng Tây-Nam Huế, tiến công theo dọc sông Truồi (tả và hữu ngạn) để có thể khi thời cơ đến sẽ nhanh chóng đánh ra đường số 1 chia cắt Huế-Đà Nẵng, cô lập địch ở Trị Thiên-Huế. Đề nghị này đã được Bộ Tổng tư lệnh chấp nhận.
Khi có thời cơ do thắng lợi ở Tây Nguyên tạo ra, ngay từ ngày 17-3-1975, Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy Trị-Thiên họp hạ quyết tâm kiên quyết dùng toàn bộ lực lượng chủ động, táo bạo, tiến công áp sát các tuyến ngăn chặn của địch, tăng thêm lực lượng về đồng bằng, bỏ khu vực điểm cao 303, 224 chuyển sang tiến công cắt giao thông địch ở đường số 1 khu vực Lương Điền-Đá Bạc (Phú Lộc).
Ở cấp chiến lược, ngày 18-3-1975, Bộ Tổng tham mưu gửi liên tiếp hai bức điện chỉ đạo Quân khu Trị-Thiên và Quân đoàn 2: “…Địch rút khỏi Kon Tum, Plei-cu. Yêu cầu phải táo bạo, hành động khẩn trương. Quân đoàn 2 phải nhanh chóng tiêu diệt quận lỵ Phú Lộc, cắt đứt đường số 1…”; “…Phải nhanh chóng đánh xuống đường số 1, cắt đường, đánh sân bay, kho tàng ở Phú Bài…”.
Như vậy, cấp chiến lược và chiến dịch đều có chung quyết định chính xác. Thực hiện quyết định này, sáng 21-3, Sư đoàn 325 cắt đứt đường số 1, đẩy địch vào tình trạng hoang mang, rối loạn, tạo điều kiện để các đơn vị phát triển tiến công, hình thành thế bao vây Huế và bịt các đường rút theo đường biển, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ giải phóng thành phố Huế (trưa 25-3) và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên (ngày 26-3), không để địch rút về Đà Nẵng.
Trong Chiến dịch Nam Ngãi, khi chuyển sang phương án thời cơ, được Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo, Quân khu 5 quyết định tập trung lực lượng tiêu diệt Sư đoàn 2 ngụy, giải phóng Tam Kỳ và Quảng Ngãi. Ngày 21-3, Sư đoàn 2 tiến công đánh tan hơn một trung đoàn địch trên tuyến phòng thủ Đông Suối Đá, sau đó nhanh chóng phát triển tiến công giải phóng Tam Kỳ vào ngày 24-3. Các lực lượng của quân khu tiến công giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Ngãi, đánh chiếm căn cứ Chu Lai vào ngày 25-3. Như vậy, Quân khu 5 đã phá vỡ tuyến phòng thủ đồng bằng ven biển của địch, cắt đôi miền Nam, dồn căn cứ liên hợp Đà Nẵng vào thế cô lập.
Trước diễn biến hết sức mau lẹ trên chiến trường, đặc biệt là thắng lợi của ta ở Trị-Thiên và Nam Ngãi, ngày 25-3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã hạ quyết tâm mở Chiến dịch Đà Nẵng (Mặt trận Quảng Đà, do đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân làm Chính ủy) tiêu diệt quân địch co cụm ở Quảng Đà, TP Đà Nẵng.
Phân tích tình hình Đà Nẵng (căn cứ quân sự liên hợp lớn, lực lượng khoảng 75 nghìn tên, với nhiều vũ khí trang bị hiện đại), Bộ Tổng tư lệnh đưa ra hai khả năng: Một là, địch có thể co cụm phòng thủ tương đối vững chắc, ta phải sử dụng Quân đoàn 2, lực lượng của Quân khu 5 và nhanh chóng đưa Quân đoàn 1 tới, tổ chức chiến dịch hiệp đồng binh chủng quy mô lớn; hai là, Đà Nẵng bị cô lập và lâm vào tình trạng tan rã. Ta cần nhanh chóng tiến công trong hành tiến bằng lực lượng tại chỗ là chính.
Ban đầu ta gấp rút đánh địch theo phương án thứ nhất. Nhưng khi Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi thất thủ, địch ở Đà Nẵng bị cô lập, hỗn loạn, bỏ ý định phòng thủ và bắt đầu tổ chức di tản thì Bộ Tổng tư lệnh đã trực tiếp chỉ huy chiến dịch, nhanh chóng điều lực lượng với ý định nhanh chóng áp sát, bao vây, chia cắt, tiến công tiêu diệt địch ở Đà Nẵng. Ngày 27-3, Bộ Tổng tham mưu điện cho Quân khu 5 phải nhanh chóng tiến công địch từ hướng Nam, bỏ những mục tiêu dọc đường, đánh thẳng vào Đà Nẵng nhanh nhất; lệnh cho Quân đoàn 2 nhanh chóng tăng cường lực lượng từ hướng Tây Bắc xuống…”. Chấp hành mệnh lệnh, Quân đoàn 2 và Quân khu 5 đã nhanh chóng tổ chức tiến công Đà Nẵng. 15 giờ ngày 29-3, ta giải phóng hoàn toàn TP Đà Nẵng, kết thúc thắng lợi đòn tiến công Huế-Đà Nẵng.
Như vậy, với những quyết định chính xác, táo bạo và rất kịp thời của các cấp, quân và dân ta đã nhanh chóng thực hiện thắng lợi đòn tiến công giải phóng Huế-Đà Nẵng, đập tan âm mưu co cụm chiến lược của địch, góp phần quyết định làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược, tạo ra sự nhảy vọt về cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho ta. Đòn tiến công Huế-Đà Nẵng thực sự là bài học quý về tổ chức điều hành các chiến dịch lớn trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh.
Đại tá PHẠM HỮU THẮNG, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam