QĐND Online- Trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn, R. Níchxơn quyết định thực hiện chủ trương có ý nghĩa chiến lược vượt ra khỏi khuôn khổ của “Việt Nam hóa chiến tranh”, nghĩa là “Mỹ hóa” trở lại một phần cuộc chiến tranh. Ngày 6.4.1972, Mỹ huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân ồ ạt tham chiến ở miền Nam và trở lại đánh phá miền Bắc. Cuộc chiến tranh phá hoại lần này, Mỹ thực hiện leo thang nhanh, đánh phá với cường độ cao trên cả hai miền Nam, Bắc và coi đó là một biện pháp quyết định. Theo đó, từ đầu tháng 4 đến đầu tháng 5-1972, Mỹ đã huy động tới 40% lực lượng không quân chiến thuật (1.300 chiếc), 45% máy bay ném bom chiến lược B.52 (150 chiếc), 60 tàu chiến trong đó có 5 tàu sân bay và 5 tàu tuần dương. Chỉ tính riêng lực lượng không quân Mỹ đánh Việt Nam gần bằng lực lượng không quân của ba nước mạnh nhất Tây Âu lúc đó là Anh, Pháp và Tây Đức cộng lại (1.575 chiếc). Quyết định quay trở lại đánh phá R. Níchxơn hy vọng sẽ bóp nghẹt miền Bắc, cắt đứt nguồn tiếp tế từ bên ngoài vào miền Bắc Việt Nam, làm cho miền Bắc suy yếu buộc phải thương lượng với Mỹ trên thế thua. Theo đó, ngày 16.4, R. Níchxơn quyết định dùng máy bay ném bom chiến lược B.52 đánh phá ác liệt Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã ở miền Bắc.

Quang cảnh Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.



Đánh giá đúng tình hình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ đạo tập trung đập tan những cố gắng quân sự cuối cùng của Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris. Đảng ta nhận định: Mỹ trắng trợn gây trở lại chiến tranh phá hoại miền Bắc, bằng không quân và hải quân trên quy mô lớn, nhằm hạn chế thắng lợi của quân dân miền Nam, hòng cứu vãn tình thế suy sụp của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, cố giữ cho cục diện chiến trường miền Nam không xấu hơn nữa đối với chúng. Từ kinh nghiệm của cuộc chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, Đảng chỉ đạo miền Bắc nhanh chóng chuyển từ thời bình, sang thời chiến. Lực lượng phòng không kiên quyết giáng trả không quân Mỹ những đòn đích đáng. Cuối tháng 8.1972, Mỹ phải thú nhận: “Mặc dù ném bom rất ác liệt, vẫn không giảm được một cách có ý nghĩa việc đưa người và trang bị vào miền Nam Việt Nam. 


Trong hơn 7 tháng tiến hành đánh phá miền Bắc Việt Nam (từ tháng 4 đến tháng 10.1972), Mỹ bị bắn rơi 600 máy bay trong đó có 20 máy bay ném bom chiến lược B.52 và 5 máy bay F.111, gần 100 tàu chiến bị bắn cháy, bắn chìm. Thất bại nặng nề trên chiến trường, ngày 22.10.1972, Tổng thống Mỹ R. Níchxơn ra lệnh ngừng ném bom bắn phá từ vĩ tuyến 20 trở ra.

Mặc dù đế quốc Mỹ đánh phá ác liệt miền Bắc và ra sức phá hoại Hội nghị Paris, nhưng Đảng ta vẫn kiên trì thực hiện phương thức kết hợp đánh - đàm để giành thắng lợi quyết định. Việt Nam tiếp tục giữ quyền chủ động tiến công, buộc Mỹ đàm phán nghiêm chỉnh và chấp nhận thất bại. Năm 1972, cả Việt Nam và Mỹ đều nhận định là năm quyết định cho cuộc chiến tranh. Vì vậy, các cuộc đàm phán dần đi vào thực chất, càng về cuối càng có những chuyển biến quan trọng. Tuy nhiên, trong 6 tháng đầu năm, hai bên vẫn chưa thực sự đi vào đàm phán, vẫn nỗ lực trên chiến trường và thăm dò nhau trên bàn hội nghị. Cuộc gặp riêng từ ngày 8 đến 12.10.1972 là mốc đánh dấu bước chuyển căn bản của cuộc đàm phán. Trong đó, phía Việt Nam đưa ra văn bản Dự thảo hiệp định hoàn chỉnh và đề nghị Mỹ ký ngay hiệp định đó.

Hai bên thỏa thuận ngày 31.10.1972, sẽ ký hiệp định chính thức tại Paris. Hiệp định Paris đã có thể được ký kết theo đúng lịch trình nếu không có sự lật lọng từ phía Mỹ. Ngày 22 và 23.10, Mỹ đòi hoãn ngày ký để thảo luận thêm, một phần là do Nguyễn Văn Thiệu phản đối quyết liệt nhưng thực chất là để có thời gian đưa vũ khí trang bị cho chính quyền Sài Gòn và thực hiện cuộc tập kích chiến lược buộc Việt Nam phải khuất phục, chấp nhận những điều khoản có lợi cho Mỹ.

 Ngay sau khi Mỹ lật lọng, tráo trở, trì hoãn việc ký hiệp định, đòi Việt Nam nhân nhượng thêm, ta quyết định công bố dự thảo hiệp định đã thoả thuận giữa hai bên và tuyên bố không gặp lại trước ngày tuyển cử như Mỹ đề nghị. Đảng nhận định Mỹ muốn tiếp tục kéo dài chiến tranh trong một thời gian nữa để giành thắng lợi về quân sự, nhằm kết thúc chiến tranh trên thế mạnh.

 Trước những diễn biến mới của tình hình, Quân uỷ Trung ương nhận định: Mỹ sẽ tập trung đánh phá ác liệt từ Thanh Hóa trở vào, đồng thời chúng có thể sẽ đánh phá trở lại miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, kể cả dùng B.52 đánh ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác. Ngay từ cuối năm 1967, Bác Hồ dự kiến âm mưu và hành động chiến tranh của Mỹ, trên bước đường cùng có thể chúng sẽ leo nấc thang cao nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng máy bay B.52 để cứu vãn tình thế thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trong buổi gặp mặt và giao nhiệm vụ cho đồng chí Phùng Thế Tài (Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội NDVN, Tư lệnh Quân chủng PK - KQ) cuối năm 1967, Người chỉ rõ: “Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 đánh ra Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua”. Bác dạy: “phải dự kiến trước hết mọi tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, mà chuẩn bị”. Bác nhấn mạnh thêm: “Chú nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam Mỹ nhất định sẽ thua... Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua ở đây (trên bầu trời Hà Nội). Vì vậy nhiệm vụ của các chú rất nặng nề.(2) 


Dự báo thiên tài của Bác đã định hướng cho sự chỉ đạo quân dân miền Bắc chuẩn bị đánh B.52 của Mỹ từ rất sớm. Lực lượng phòng không, không quân tập trung mọi khả năng nhằm đánh trúng B.52. Đến ngày 4.12.1972, công tác chuẩn bị cho đánh B.52 cơ bản đã xong.

Đúng như dự kiến, sau ngày 23.10.1972, đặc biệt là sau khi trúng cử tổng thống (8.11.1972), R. Níchxơn ráo riết chuẩn bị bước phiêu lưu quân sự mới. Mỹ trở giọng đe doạ, phá ngang làm cho cuộc đàm phán tại Hội nghị Paris bị gián đoạn. Mỹ tập trung lực lượng không quân ở mức cao nhất để đánh phá ngăn chặn các tuyến giao thông từ nam vĩ tuyến 20 trở vào, trọng điểm đánh phá là các tuyến vận chuyển hàng hoá vào chiến trường miền Nam. Ngày 14.12.1972, R. Níchxơn phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích chiến lược vào Bắc Việt Nam. Theo đó, ngày 18.12.1972, đế quốc Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược đường không với quy mô lớn nhất vào miền Bắc Việt Nam với mật danh “Lainơblếchcơ II”. Mỹ huy động 193 máy bay B.52, 999 máy bay chiến thuật để đánh phá ác liệt Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã khác nhằm “làm tê liệt đời sống hàng ngày của Hà Nội, Hải Phòng và phá huỷ khả năng của Bắc Việt Nam, ủng hộ các lực lượng ở Nam Việt Nam” (3)
. Mặt khác, Mỹ muốn rút quân trên thế mạnh.


Từ 18 đến 29.12.1972, không quân Mỹ đã xuất kích 729 lần chiếc máy bay B.52, 1.900 lần chiếc máy bay chiến thuật, liên tục đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và một số điểm khác ở bắc vĩ tuyến 20. Mỹ dùng B.52 rải thảm vào cả bệnh viện, trường học, nhà ga, bến xe. Theo Gi. Amtơ thì sự đánh phá của không quân Mỹ với “sự tàn bạo hơn bao giờ hết trong lịch sử cuộc chiến tranh Việt Nam” (4). 
Không quân Mỹ gây cho nhân dân miền Bắc nhiều khó khăn, tổn thất, 2.368 người chết, 3.526 người bị thương. Đặc biệt là Mỹ đã tập trung 444 lần chiếc máy bay B.52 và hơn 1.000 lần chiếc máy bay cường kích đánh phá ác liệt thủ đô Hà Nội. Riêng ngày 26.12.1972, Mỹ sử dụng tới 105 lần chiếc máy bay B.52 đánh phá Hà Nội, hơn 100 điểm bị trúng bom làm hàng trăm người chết, hàng nghìn người bị thương. Chỉ riêng phố Khâm Thiên bom đạn Mỹ đã giết hại 300 người, làm sập 2.000 ngôi nhà. Những hành động quân sự dã man của chính quyền R. Níchxơn bị dư luận thế giới, kể cả những đồng minh của Mỹ trong Khối NATO và dư luận Mỹ lên án mạnh mẽ.


R. Níchxơn hy vọng rằng với sức mạnh của không lực Hoa Kỳ, Mỹ sẽ đạt được mục đích. Nhà sử học người Mỹ Giơlingơrinút tiết lộ: “Níchxơn, Kítxinhgiơ và 1.700 nhân viên phi hành B.52 tham gia cú đấm chiến lược này đều có niềm tin mãnh liệt ban đầu về kết quả chiến đấu. Bởi vì theo họ trong nhiều năm nay, ở Nam Việt Nam B.52 giữ vai trò quyết định, các vũ khí phòng không của Việt cộng không có tác dụng gì với B.52” (5).


Với ý chí quyết tâm sắt đá, dưới sự lãnh đạo đúng đắn sáng suốt của Đảng, quân dân miền Bắc đã kịp thời giáng trả đế quốc Mỹ những đòn đích đáng.  Trong 12 ngày đêm chiến đấu quân dân miền Bắc đã đập tan cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn của đế quốc Mỹ, bắn cháy 81 máy bay hiện đại trong đó có 34 máy bay B.52, 5 máy bay F.111 nhiều chiếc bị bắn rơi ngay tại Thủ đô Hà Nội, 43 phi công bị bắt sống, trong đó có 33 phi công lái B.52.

Đây cũng là chiến dịch đầu tiên trên thế giới tiêu diệt nhiều máy bay ném bom chiến lược B.52 của đế quốc Mỹ. Đồng thời, đó cũng là trận thất bại nặng nề nhất của không quân Mỹ từ trước tới nay. Đánh giá tầm vóc vĩ đại của chiến thắng oanh liệt 12 ngày đêm cuối năm 1972, thế giới gọi đó là trận “Điện Biên Phủ trên không”. Chiến thắng đó đã tạo thế và lực mới cho Việt Nam trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris.

Phố Khâm Thiên (Hà Nội) ngày 26-12-1972. Ảnh Internet

 

 
Thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam và thất bại trong 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội, ý chí đàm phán trên thế mạnh của tập đoàn R. Níchxơn - H. Kítxinhgiơ đã bị đè bẹp. Thất bại đó buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngừng ném bom, bắn phá bắc vĩ tuyến 20, từ ngày 30.12.1972. Ngày 6.1.1973, R. Níchxơn chỉ thị cho H. Kítxinhgiơ cần đạt được một giải pháp dù đối phương đưa ra những điều kiện khắt khe và nhấn mạnh là sẵn sàng chấp nhận văn bản đã thoả thuận tháng 10.1972, buộc phải chấp nhận kết quả đàm phán ngoài mong muốn. Ngày 8.1.1973, Mỹ phải tiếp tục nối lại đàm phán trên thế yếu tại Hội nghị Paris.


 Ngày 15.01.1973, Chính phủ Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc. Ngày 23.01.1973, Hiệp định và các nghị định thư được cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và cố vấn H. Kítxinhgiơ ký tắt. Thất bại nặng nề của Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc - những cố gắng quân sự cuối cùng, buộc Mỹ phải ký “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam” ngày 27.01.1973.

TS Nguyễn Văn Bạo

 

 


1 Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiể mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Nxb ST, Hà Nội 1991, tr.23.
2 .Tầm nhìn xa của Bác,
Báo Nhân dân, ngày 20.5.2000, tr.2

3. Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb QĐND, Hà Nội, tr.243.
4. SĐD, tr.243.
5. Khoảng không bi thảm, Báo QĐND, ngày 03.01.1983, tr.2.