Tháng 2-1288, được tin đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị thủy quân nhà Trần dưới sự chỉ huy của Danh tướng Trần Khánh Dư tiêu diệt gọn, quân Nguyên Mông trong các đồn trại đóng trên đất Đại Việt rất xôn xao. Tướng giặc là Thoát Hoan muốn phái người về nước cầu lương, nhưng quân và dân nhà Trần đã chặn đứng các ngả đường khiến gián điệp của Thoát Hoan không thể ra khỏi biên giới. Các bộ tướng của Thoát Hoan thấy nguy, bèn bàn với Thoát Hoan: “Quân ta đóng ở đây không có thành trì kiên cố, kho tàng thì đã cạn khô, với lại tiết xuân sang hạ, khí trời nóng nực khó chịu, mà những chỗ hiểm yếu thì bị quân Việt chiếm lấy cả rồi, chi bằng hãy rút quân về rồi sau sẽ liệu kế khác”. Cân nhắc lợi hại, Thoát Hoan thấy không còn cách nào hơn là phải rút quân về nước. Hắn lên kế hoạch: Cử Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy thủy quân rút về nước trước. Còn trên bộ thì cử Trình Bằng Phi và Trưng Quân dẫn binh đi tiền trạm để Thoát Hoan đích thân chỉ huy quân bộ rút theo sau.

Tổng chỉ huy quân đội Đại Việt, Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn nghe tin giặc rút, bèn cử Tướng quân Nguyễn Khoái chỉ huy quân thủy, bộ mai phục ở vùng cửa sông Bạch Đằng chặn đánh thủy binh địch. Tướng quân Phạm Ngũ Lão thì chỉ huy quân bộ, mai phục chặn đánh quân bộ của địch trên đường rút chạy về ải Tư Minh.

Lợi dụng thế thiên hiểm của vùng sông nước Bạch Đằng, Tướng quân Nguyễn Khoái vận dụng mưu kế đánh giặc Nam Hán của Ngô Vương (Ngô Quyền) trước kia, dùng cọc gỗ đẽo nhọn, bịt sắt, đóng xuống lòng sông, rồi bố trí trận địa mai phục chờ đánh địch. Khi thế trận chờ đánh địch ở cửa sông Bạch Đằng hoàn tất, thì báo cho Trần Quốc Tuấn dẫn đại binh và quân ngự (quân của nhà vua) xuống hợp lực để tiêu diệt giặc.

Đây là kế sách lợi dụng thế thiên hiểm, mai phục, đánh vào chỗ yếu của địch. Bởi quân Đại Việt quen đánh trận ở vùng sông nước và ven biển, còn quân Nguyên Mông phần lớn là kỵ binh, chúng chỉ quen đánh trận trên sa mạc và các bình nguyên. Vó ngựa, cung tên và kiếm sắc của giặc không thể nào phát huy được sức mạnh khi giao chiến trên vùng sông nước hay vùng đồng bằng lầy lội với một đối phương sử dụng giáo dài, hầm chông và tên nhọn. Đánh giá đúng địch, Trần Quốc Tuấn đã tập trung lực lượng đánh vào đạo quân địch rút theo đường thủy, còn đạo quân địch rút theo đường bộ đã có quân của Phạm Ngũ Lão, các vương hầu và hương binh của các làng, xã, thổ binh của các động, bản (dọc đường rút chạy của bộ binh địch) lo.

Chiến thuyền của Ô Mã Nhi đến sông Bạch Đằng thì gặp những thuyền chiến nhẹ của thủy binh Đại Việt do đích thân Tướng quân Nguyễn Khoái chỉ huy ra khiêu chiến. Ô Mã Nhi thúc quân tiến đánh thì thuyền chiến nhẹ của quân Đại Việt giả thua, quay thuyền chạy nhử địch. Lúc bấy giờ vào tảng sáng, nước thủy triều đang lên trên sông Bạch Đằng, cả một vùng sông nước mênh mông khiến cho thuyền chiến của quân Ô Mã Nhi bám theo thuyền của quân Đại Việt sát nút, nên chúng càng ham diệt gọn đối phương. Khi thấy nước triều bắt đầu rút thì các thuyền quân của Nguyễn Khoái quay trở lại, đồng thời quân thủy, quân bộ Đại Việt phục sẵn bên những nhánh sông và hai bên bờ sông đồng loạt công kích địch. Bị bất ngờ, những chiến thuyền địch quay đầu tìm cách chạy ra biển nhưng không thoát. Trận địa cọc ngầm đóng dưới lòng sông đã phát huy tác dụng, đâm thủng thuyền giặc. Quân và dân nhà Trần dốc sức đánh tiêu diệt. Quân Nguyên Mông hoảng hốt nhảy vội xuống sông... khiến cả một khúc sông máu hòa đỏ ngầu. Hầu như toàn bộ đạo quân giặc rút theo đường thủy bị tiêu diệt và bị bắt. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cả Ngọc đều bị tóm sống. Cuộc chiến đấu diễn ra từ sáng sớm đến chập tối ngày 9-4-1288 thì kết thúc.

Đòn đánh sấm sét ở sông Bạch Đằng tháng 4-1288, đã góp phần quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến lần thứ ba của quân và dân nhà Trần. Mặc dù lực lượng chỉ bằng nửa quân giặc, nhưng do biết đánh vào chỗ yếu của địch mà quân và dân nhà Trần đã giành những thắng lợi vang dội cả ở mặt trận dưới nước và trên bộ.

HÀ THÀNH