Những trận đánh để đời và bí quyết của người xạ thủ

QĐND Online - “Hàng trăm con người của Tiểu đoàn này đều trông đợi vào 18 khẩu đội, 18 xạ thủ số 1. Tiểu đoàn có tiêu diệt được địch, có hoàn thành được nhiệm vụ hay không? Điều đó phần nhiều tuỳ thuộc vào kết quả chiến đấu của người xạ thủ này”- nhận thức đúng về trách nhiệm của mình nên trong suốt những năm lăn lộn ở chiến trường, Vũ Xuân Đài không ngừng rèn luyện, trau dồi, tích luỹ kinh nghiệm chiến đấu. Không lâu sau ngày lên vị trí xạ  thủ số 1, ông đã trở thành “Cánh chim đầu đàn” trên tuyến đầu chống Mỹ, ngụy…

Chiếc bằng khen ghi nhận AHLLVTND Vũ Xuân Đài tiêu diệt 35 máy bay địch tính đến tháng 12-1968

Trong 4 năm hoạt động trên địa bàn Quân khu 5, ông tham gia đánh nhiều trận. Có những trận bắn rơi tới 4 máy bay UH1A (trận đánh ngày 3-4-1966 tại thôn 1, xã Phú Sơn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi). Có trận ông bắn rơi 1 chiếc C47, xoá sổ cả nhóm sỹ quan cao cấp đi trên chiếc máy bay này…

Trận đánh ngày 17-9-1967 là một trong những trận đánh “để đời” đối với ông. Hôm ấy, địch sử dụng HU1A để càn quét khu vực gần xã Bình Trị- Tam Kỳ- Quảng Nam. Nắm được ý đồ của địch, ông đề xuất đưa khẩu đội lên Dốc Châm (thuộc địa bàn xã Bình Trị) mai phục. 8 giờ sáng, máy bay địch ầm ầm kéo đến. Chúng đi thành từng tốp 3 chiếc một. “Chúng bay thấp lắm. Dễ có đến 18 tốp. Khi ấy, súng được chúng tôi nguỵ trang bằng lá đùng đình- một loại cây bền, lâu héo. Thế nhưng khi chúng bay qua, lá cây táp hết, trơ cả họng súng”- Sau cái nhíu mày, ông Đài nhớ lại trận đánh cách đây đã hơn 40 năm.

Sau khi lựa chọn “con mồi”, ông chờ chúng bay vào cự ly thích hợp rồi nhả đạn. Vì 3 chiếc bay theo đội hình mũi tên lệch, nên sau khi nhả đạn vào chiếc đi đầu, ông nhẹ nhàng rê nòng súng vào chiếc số 2, rồi đến số 3. Cả ba chiếc đều bị quật cổ ngay tại chỗ.

“Cũng có trận tôi đã nghĩ là mình sẽ hi sinh. Ấy là trận quần nhau với bọn giặc trời bên dòng sông Hàn”- nhấp xong ngụm trà, ông Đài kể tiếp.

Sau khi ăn Tết Mậu Thân, đêm 5-2-1968, đơn vị ông hành quân về Thôn 3, xã Hà Tây, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam và làm công tác chuẩn bị vượt sông để đánh vào Đà Nẵng. Nhưng vào thời điểm đó ý định của ta bị địch phát hiện nên chúng tập trung hoả lực, lập trận địa phòng ngự kiên cố phía bên kia để ngăn cản bộ đội ta vượt sông. Đêm đến, trực thăng địch bay thành từng tốp 3 chiếc một, cách nhau chừng 100 mét, quần thảo dọc sông Hàn. Chúng sẵn sàng xả súng vào bất cứ vật gì di động trên sông, kể cả mảng bèo tây cũng không thoát khỏi họng súng của địch. Chính vì thế nên đêm ấy đơn vị ông không thể vượt sông theo kế hoạch.

Chừng 7 giờ sáng hôm sau, máy bay OV10 của địch vè vè bay trinh sát trên đầu đội hình của ta. 5 khẩu đội trong đội hình đơn vị ông lập trận địa ven làng, riêng khẩu đội của ông triển khai cạnh một doi đất nhô ra khỏi làng, sát với cánh đồng. Khi máy bay địch xuất hiện, nhận được lệnh, ông lập tức nổ súng. So với các khẩu đội bạn, khẩu đội của ông trở thành mục tiêu lộ nhất. Vì vậy máy bay địch liên tiếp bổ nhào cắt bom xuống trận địa. “Lúc đó tôi đã nghĩ, chắc trận này mình sẽ hi sinh. Vậy thì phải hô một lời nào đó trước khi vĩnh biệt. Nhờ gió mây gửi về người thân, bè bạn. Câu đầu tiên tôi nghĩ là “Vĩnh biệt bố mẹ và anh em, vĩnh biệt tất cả các đồng chí”. Nhưng như thế thì dài quá. Rồi tôi cắt bớt đi thành “Vĩnh biệt tất cả”. Trong trận đó, không nhớ tôi đã hô bao nhiêu lần câu ấy trước khi nã đạn vào kẻ thù. Nhưng rốt cuộc bom đạn nó vẫn “chừa” tôi. Sau trận đánh ấy, cấp trên thông báo khẩu đội tôi đã bắn rơi 2 chiếc khu trục T28 và bắn bị thương 2 chiếc khác”- Ông Đài nói.

Còn một trận đánh khác mà ông nhớ khá rõ, đó là trận tiêu diệt 5 máy bay trực thăng của địch khi chúng có hành động phá hoại sức sản xuất của nhân dân vùng giải phóng. Trước trận đánh ấy 2 hôm, vào ngày 3-8-1967, 5 chiếc trực thăng của địch ở sân bay Quảng Ngãi đã ngang nhiên xả súng giết chết hơn 100 con trâu bò của nhân dân xã Phương Đông- huyện Trà My- tỉnh Quảng Nam khi đàn trâu bò về bãi tắm rửa. Ngay tối hôm đó, cấp trên lệnh cho trung đội tổ chức mai phục, tiêu diệt bọn giặc lái ngông cuồng ấy để trả thù cho đồng bào. Đúng như phán đoán, chiều 5-8-1967, 5 chiếc trực thăng lại ngênh ngang quay lại. Kết cục, chúng đã không thoát khỏi trận địa ta mai phục sẵn, cả 5 chiếc trực thăng bị diệt gọn, toàn bộ lũ giặc trời chết ngay tại chỗ.

Trực tiếp tham gia nhiều trận đánh ác liệt, ông đã trở thành “người đi săn” giàu kinh nghiệm (cách gọi của báo chí dành cho ông thời ấy). Với ông, đánh địch chỉ bằng ý chí sắt đá, bằng tinh thần quyết tâm thôi thì chưa thể nâng cao hiệu suất tiêu diệt địch, mà phải có kỹ năng, kỹ xảo để vừa bắn trúng địch, vừa không bị địch bắn trúng.

Quan sát qua nhiều trận đánh, ông đúc kết ra một điều, khi máy bay địch chuẩn bị ấn nút cắt bom, đó là lúc đường bay của chúng ổn định nhất. Lúc này, người xạ thủ phải kiên quyết không cho chúng cơ hội thuận lợi để phóng bom. Trong mỗi trận đánh máy bay cường kích của địch, ông tập trung cao độ để quan sát đường bay của chúng. Chờ đến lúc máy bay địch không còn nghiêng lắc mà bắt đầu bay ổn định, ông trút đạn ngay. “Trong tình huống bị đạn của ta bủa vây như vậy, không thằng giặc lái nào dám giữ nguyên trạng thái bay như cũ, mà chúng phải cơ động, bom phóng xuống cũng vì thế mà không còn chính xác”- Ông Đài giải thích.

Theo ông Đài, bảo đảm an toàn tính mạng cho mình và đồng đội trước bom đạn của kẻ thù là quan trọng, song tiêu hao sinh lực địch- yếu tố then chốt quyết định kết quả trận đánh- cũng không kém phần quan trọng. Thông thường ngày ấy trong một dây đạn của súng 12,7mm, cứ ba viên đạn xuyên thì đến một viên đạn lửa. Đạn lửa giúp cho xạ thủ quan sát được đường đi của đạn để kịp thời điều chỉnh đường ngắm, nó cũng có tác dụng sát thương như đạn xuyên. “Cứ 3 viên đạn xuyên mới đến 1 viên đạn lửa thì khoảng cách về mặt thời gian để quan sát đường đi của đạn vẫn xa, trong khi tốc độ của máy bay rất nhanh. Bởi thế, tôi đã yêu cầu anh em tổ đạn lắp xen kẽ cứ một viên đạn xuyên thì đến một viên đạn lửa. Vì thế mà đường ngắm được điều chỉnh nhanh, tính chính xác sẽ cao hơn rất nhiều. Ngoài ra, sau khi bóp cò, xạ thủ phải mở ngay cả 2 mắt để quan sát đường đi của đạn”- đó chính là bí quyết bắn trúng máy bay địch của ông. Và thực tế đã chứng minh tính hiệu quả của phương pháp ấy.

Ngày 20-3-1969, trong trận chi viện cho Tiểu đoàn đặc công 10, Sư đoàn 2 tấn công một đơn vị bộ binh Mỹ chốt trên Đồi Tranh- thôn Ba Xã- huyện Tiên Phước- tỉnh Quảng Nam, ông đã bị thương nặng khi trúng đạn pháo của địch bắn chi viện cho bọn Mỹ từ căn cứ Nông Sơn. Gãy xương chậu, xương đùi và xương ổ quay, suốt một năm trời ông phải chuyển qua nhiều trạm phẫu thuật, bệnh viện.

Sau khi lành vết thương, ông được chuyển công tác về viện Quân y 7, Quân khu 3, cho đến tháng 12- 1978 ông về nghỉ hưu và sinh sống tại thành phố Hải Dương. Tuy là thương binh nặng 1/4, vết thương cũ thường xuyên tái phát, song ông vẫn tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội.

Với những cống hiến xứng đáng cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, Vũ Xuân Đài đã được tặng thưởng 4 Huân chương chiến công Giải phóng hạng nhì và hạng ba; 1 Huy hiệu Bác Hồ; danh hiệu Chiến sĩ thi đua trong 4 năm liên tục (1965- 1968); 19 Bằng khen. Đặc biệt, ngày 20-12-1994, Vũ Xuân Đài đã được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Trước khi chia tay, ông nói với tôi song cứ như tâm sự với chính mình: “Đã lâu lắm rồi, hôm nay tôi lại được sống trong cảm giác của những ngày tuy gian khổ song cũng đầy sôi nổi- những năm tháng đã giúp lớp thanh niên chúng tôi ngày ấy sống có ý nghĩa hơn”. Nhìn sâu vào đôi mắt ông, tôi thấy trong đó vẫn lấp lánh ánh lửa. Phía xa xa, mặt trời đang chiếu xiên những tia rực rỡ, tuy trời đã đổ về chiều…

Bài và ảnh: Phạm Hoàng Hà
Chuyện của một “Kiện tướng bắn máy bay” (kỳ 1)