QĐND - Chiến dịch Tây Nguyên được tiến hành bằng sức mạnh binh chủng hợp thành, quân ta đã tiến công tiêu diệt nhiều vị trí quan trọng, giải phóng hoàn toàn các tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ Tây Nguyên, mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Góp phần vào chiến thắng trong chiến dịch này là công tác bảo đảm kỹ thuật chủ động, sáng tạo đầy đủ, kịp thời cho các lực lượng, nhất là việc bảo đảm cho pháo binh, tăng-thiết giáp.
 |
Xe tăng của ta đánh chiếm Bộ tư lệnh Sư đoàn 23 ngụy ở Buôn Ma Thuột. Ảnh tư liệu
|
Để phục vụ chiến dịch, lực lượng kỹ thuật pháo binh chiến dịch phải tổ chức bảo đảm một khối lượng lớn trang bị cho 6 trung đoàn pháo binh (các Trung đoàn: 40, 675 của mặt trận và 4 trung đoàn của các Sư đoàn bộ binh: 10, 320, 316, 3) và 2 tiểu đoàn pháo binh độc lập. Tổng số pháo, cối là 129 khẩu pháo chiến dịch và 349 khẩu pháo, cối trong biên chế của các đơn vị bộ binh. Tổng số đạn pháo xe kéo dự kiến cho chiến dịch là 15.488 viên (tiêu thụ là 13.088 viên, dự trữ 2.400 viên).
Ngoài Trung đoàn Pháo binh 40 và 675 của Mặt trận Tây Nguyên có lực lượng bảo đảm kỹ thuật tương đối mạnh, còn 4 trung đoàn pháo binh mới xây dựng nên tổ chức biên chế chưa hoàn chỉnh. Cán bộ, nhân viên kỹ thuật còn thiếu và bỡ ngỡ, không có trạm sửa chữa, chất lượng xe pháo, khí tài xuống cấp, phụ tùng thay thế không có. Trước tình hình trên, Tổng cục Kỹ thuật đã tổ chức các trạm sửa chữa thuộc các Cục Quân khí, Quân giới, Quản lý xe lần lượt vào Tây Nguyên tham gia bảo đảm kỹ thuật pháo binh cho chiến dịch. Tháng 1-1975, Cục Quản lý xe tổ chức đội T203 gồm 62 người và 12 xe vào làm nhiệm vụ sửa chữa xe xích kéo pháo. Tháng 2-1975, Bộ tư lệnh Pháo binh tổ chức 4 trạm sửa chữa xe, 4 trạm sửa chữa pháo. Lữ đoàn 204 đưa 4 khẩu pháo 122-K38, 4 khẩu 122-Đ74 và 10 xe kéo pháo cùng 13 nhân viên kỹ thuật vào bổ sung cho chiến dịch. Với lực lượng sửa chữa được tăng cường, lực lượng thợ đã thay nhau làm việc suốt ngày đêm để đưa nhanh xe, pháo về đội hình chiến đấu.
Trong chiến dịch, cơ quan hậu cần-kỹ thuật chiến dịch chuyển trên 100 tấn đạn vào mặt trận, Tổng cục Kỹ thuật tiếp tục bảo đảm2000 tấn đạn và tổ chức các cơ quan kỹ thuật, các trạm, tổ, đội sửa chữa đi cùng các hướng chiến đấu, kiểm tra sửa chữa xe, pháo cho các sư đoàn. Tại các vị trí tập kết đã kiểm tra được 3.672 lần khẩu pháo-súng bộ binh, sửa chữa vừa và nhỏ cho 476 lần khẩu pháo và 4.215 xe kéo, đưa hệ số kỹ thuật của vũ khí, phương tiện kỹ thuật từ 7 1,7% lên 99,5%, riêng hệ số kỹ thuật cho pháo đạt 79,7%.
Lực lượng tăng, thiết giáp tham gia Chiến dịch Tây Nguyên gồm 47 xe tăng và 16 xe thiết giáp K63 của 3 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn xe tăng 273, có nhiệm vụ tập trung tạo thành các mũi đột kích mạnh, phối hợp với các Sư đoàn bộ binh 316, 10 và Trung đoàn 95B trong đội hình binh chủng hợp thành, tiến công địch trên 4 hướng vào thị xã Buôn Ma Thuột. Mỗi hướng sử dụng 1 đại đội tăng, riêng hướng Tây là hướng thọc sâu của chiến dịch sử dụng 1 tiểu đoàn tăng (thiếu).
Để làm tốt công tác chuẩn bị phục vụ chiến dịch, Tổng cục Kỹ thuật tổ chức các trạm sửa chữa thuộc các cục: Quân khí, Quân giới, Quản lý xe lần lượt vào Tây Nguyên tham gia bảo đảm kỹ thuật cho chiến dịch. Bộ tư lệnh Tăng-Thiết giáp cử đoàn cán bộ và 1 đội sửa chữa tăng-thiết giáp (28 người) do Phó tư lệnh Binh chủng Lê Xuân Kiện phụ trách, vào chiến trường Tây Nguyên giúp các đơn vị sửa chữa xe, pháo. Tại Trung đoàn Xe tăng 273, đội sửa chữa của Bộ tư lệnh phối hợp với lực lượng kỹ thuật của đơn vị tổ chức các tổ đi tìm các xe tăng hư hỏng, tháo gỡ phụ tùng để sửa chữa, thay thế, đồng thời tập trung sửa chữa, bảo dưỡng cấp 2, 3 cho toàn bộ số xe của trung đoàn, nâng tỷ lệ số xe sẵn sàng chiến đấu lên 88,6%.
Tại khu tập kết chiến dịch ở buôn Ia Vẳn cách Buôn Ma Thuột 80km về phía Bắc, ta tổ chức sở chỉ huy hậu phương cách sở chỉ huy phía trước chiến dịch khoảng 20km và thành lập 2 đội sửa chữa cứu kéo cơ động. Đội sửa chữa cứu kéo được trang bị xe kéo và tổ thợ sẵn sàng cơ động trên các hướng khi có lệnh của sở chỉ huy phía trước và đi thu hồi xe của địch sau mỗi trận đánh. Trên mỗi hướng, ta bố trí 1 tổ bảo đảm kỹ thuật với 2-3 thợ, phân tán trên các xe của các đại đội để kịp thời khắc phục sự cố kỹ thuật xảy ra trong chiến đấu.
Quá trình diễn ra chiến dịch, lực lượng bảo đảm kỹ thuật tăng, thiết giáp luôn bám sát đội hình chiến đấu. Sau mỗi ngày, mỗi đợt chiến đấu, các đơn vị đã tranh thủ thời gian bảo dưỡng xe, sửa chữa hỏng hóc, bổ sung nhiên liệu, dầu mỡ, đạn dược để kịp tham gia trận đánh tiếp theo. Trong trận Buôn Ma Thuột, các đại đội xe tăng chiến đấu độc lập trên các hướng được tăng cường tổ quan sát cứu chữa (2 thợ tiểu đoàn), trung đội sửa chữa của tiểu đoàn ưu tiên bố trí đi theo hướng sử dụng nhiều xe.
Nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật pháo binh, tăng-thiết giáp trong Chiến dịch Tây Nguyên đã khẳng định sự chủ động, sáng tạo, kịp thời trong việc bảo đảm kỹ thuật cho chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Qua đó, để lại nhiều bài học quý, kịp thời áp dụng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 và có thể vận dụng vào thực hiện nhiệm vụ tác chiến hiện nay.
VŨ HOÀNG ÂN