QĐND - Sau khi ta mở một loạt chiến dịch tiến công Đông Xuân 1953-1954, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, giải phóng nhiều vùng địa bàn chiến lược, buộc thực dân Pháp phải tăng cường lực lượng xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ trở thành “pháo đài bất khả xâm phạm mạnh nhất Đông Dương”. Trước diễn biến mới của chiến trường, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị họp quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Sau 55 ngày đêm (từ ngày 13-3-1954 đến 7-5-1954), quân ta chiến đấu dũng cảm, với 3 đợt tiến công, Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ là kết tinh cao nhất sức mạnh tổng hợp của dân tộc và sức mạnh thời đại của hoạt động lãnh đạo, chỉ huy các cấp từ Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh đến các cơ quan cấp chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, của tổng hợp các hoạt động công tác quân sự, hậu cần, kỹ thuật, để lại nhiều bài học nghệ thuật quân sự quý giá. Một trong những điển hình là nghệ thuật chủ động khắc phục khó khăn, bảo đảm vật chất đưa chiến dịch đến toàn thắng.
 |
|
Vận chuyển vũ khí đưa vào cất chứa trong kho an toàn để phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh chụp lại tại Bảo tàng Vũ khí.
|
Sau khi quyết định thay đổi phương châm từ “đánh nhanh, thắng nhanh”, sang “đánh chắc, tiến chắc”, trên cơ sở phân tích tình hình địch, ta, địa hình, Bộ chỉ huy chiến dịch đã tính toán và chỉ đạo lực lượng hậu cần và các đơn vị làm tốt công tác chuẩn bị, bảo đảm cơ sở vật chất cho chiến dịch. Để bảo đảm hậu cần khi chiến dịch kéo dài, ta đã giải quyết hàng loạt những khó khăn về hậu cần tiếp tế, thời tiết khắc nghiệt khi mùa mưa đến, về sức khỏe, quân số và sức chiến đấu của bộ đội, trong điều kiện địch đánh phá ác liệt. Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ đạo: Tập trung huy động cơ sở vật chất từ nhiều địa phương Tây Bắc, Việt Bắc đến, Khu 4 lên, từ vùng địch hậu ra và Trung Quốc về. Phương tiện vận chuyển kết hợp cơ giới và thô sơ, như sử dụng quang gánh, xe đạp, thuyền bè và ngựa thồ… Phương tiện cơ giới với 450 xe vận tải cơ giới là lực lượng vận chuyển chủ yếu của hậu cần chiến dịch.
Quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, Bộ chỉ huy chiến dịch điều thêm lực lượng cao xạ và công binh ra bảo đảm trục đường Sơn La - Tuần Giáo - Điện Biên. Các đơn vị bộ đội, dân công, thanh niên xung phong mở đường vận chuyển đường sông từ bản Nậm Cúm về Lai Châu, phá hơn 100 thác lớn nhỏ trên sông Nậm Na dài chừng 80km, mở đường cho hơn 10.000 lượt chiếc mảng nứa vận chuyển hàng nghìn tấn gạo về Lai Châu để chuyển tiếp theo trục đường bộ Tuần Giáo-Điện Biên. Để khắc phục tình trạng thiếu đạn pháo, đạn cối, Bộ chỉ huy chiến dịch động viên các đơn vị "lấy vũ khí địch diệt địch". Bộ đội ta phát động phong trào "đoạt dù tiếp tế" đã dần dần đáp ứng yêu cầu về đạn pháo, cối (riêng đạn lựu pháo đoạt được của địch đã bằng 1/2 tổng số đạn đưa từ hậu phương ra, đáp ứng 1/4 tổng số đạn tiêu thụ trong toàn chiến dịch). Đồng thời, Bộ chỉ huy đã nghiêm khắc phê phán những thiếu sót của các đơn vị không coi trọng việc thu dọn chiến lợi phẩm (trong cả hai trận đợt 1) và hiện tượng lãng phí đạn trong đợt 2. Hai tiểu đoàn lựu pháo (24 khẩu) lần đầu xuất trận với số lượng đạn quá ít trước yêu cầu của một chiến dịch lớn kéo dài; hậu phương "vét kho" cũng chỉ đáp ứng chừng 1/2 số đạn tiêu thụ trong toàn chiến dịch (11.715 viên trong tổng nhu cầu 20.000 viên), số đạn bạn giúp cũng chỉ đạt 18% so với yêu cầu (3.600 viên trong số 20.000 viên). Do thiếu đạn, có đại đội lựu pháo như Đại đội 803 phải tạm ngừng chiến đấu 3 ngày; có đại đội sơn pháo, như Đại đội 752, phải đưa pháo rời trận địa, pháo thủ tạm điều đi đơn vị khác.
Trong đợt 2 chiến dịch kéo dài một tháng (từ ngày 30-3 đến 30-4-1954), cuộc sống chiến đấu trong chiến hào của bộ đội (nhất là các đơn vị sống trong những "hàm ếch" khoét bên bờ chiến hào giữa cánh đồng phía tây) gặp nhiều khó khăn. Sau mỗi trận mưa là những ngày nắng dữ dội, không khí oi ả ngột ngạt, tình trạng thiếu nước, thiếu ngủ, thiếu rau xanh đe dọa trực tiếp sức khỏe bộ đội. Nhằm khắc phục những khó khăn đó, Bộ chỉ huy đã cử nhiều cán bộ chủ chốt của các cơ quan chiến dịch xuống giúp đơn vị cải thiện sinh hoạt của bộ đội; đẩy mạnh phong trào "bình thường hóa cuộc sống trong chiến hào". Các đơn vị còn có nhiều biện pháp tích cực, sáng tạo, bảo đảm ăn, ngủ, nghỉ, tắm giặt, giải trí cho bộ đội sau từng trận đánh. Từng đơn vị đẩy mạnh tăng gia ở hậu cứ, như đào củ mài, kiếm hoa chuối rừng thay rau, trồng rau ngắn ngày, bắt cá suối, cá sông, ngâm giá đỗ để tiếp tế ra phía trước, đã góp phần duy trì sức khỏe cho bộ đội chiến đấu dài ngày, đưa chiến dịch đến thắng lợi.
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ đã khẳng định sự vận dụng thành công nghệ thuật chủ động khắc phục khó khăn bảo đảm vật chất trong chiến dịch. Bài học bảo đảm vật chất hậu cần Chiến dịch Điện Biên Phủ đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục được nghiên cứu, phát triển cho phù hợp với điều kiện và đối tượng tác chiến mới.
Đại tá ĐÀO VĂN ĐỆ