QĐND - Đầu tháng 9-1952, sau khi phân tích, đánh giá tình hình địch, ta trên chiến trường Bắc Bộ, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tham mưu quyết định mở chiến dịch Tây Bắc nhằm tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch ở 4 phân khu: Lai Châu, Sông Đà, Nghĩa Lộ, Sơn La và 3 tiểu khu độc lập: Thuận Châu, Phù Yên, Tuần Giáo, giải phóng nhân dân và phần lớn đất đai Tây Bắc.

Để tiến hành chiến dịch thắng lợi, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu, Bộ tư lệnh chiến dịch triển khai đồng bộ công tác chuẩn bị cho chiến dịch, trong đó đặc biệt chú trọng kế hoạch thiết lập phương án tác chiến và nghi binh lừa địch, không cho chúng dự đoán được thế trận và bố trí lực lượng của ta.

Công tác nghi binh, lừa địch được Bộ Tổng tư lệnh và Bộ tư lệnh chiến dịch tập trung chỉ đạo thống nhất, chuẩn bị tỉ mỉ công phu và được các lực lượng trên các hướng trọng điểm chấp hành nghiêm túc, thực thi triệt để. Không phát hiện ta chuẩn bị mở chiến dịch Tây Bắc, Bộ Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương cho rằng, “hoạt động quân sự của Việt Minh trong Thu - Đông 1952 là ở Đồng bằng Bắc Bộ”, vì thế, chúng thường xuyên bố trí 29 tiểu đoàn (trong tổng số 32 tiểu đoàn cơ động chiến lược của toàn Bắc Bộ) vào vùng chiến lược này. Địch cho một số tiểu đoàn mở các cuộc hành quân càn quét thăm dò ra vùng tự do Ninh Bình và Vĩnh Phúc. “Tương kế, tựu kế”, Bộ Tổng tham mưu đưa một bộ phận trinh sát của Bộ vào hoạt động ở các hướng giáp ranh và vùng sau lưng địch ở đồng bằng Nam Liên khu 3 (Hà Nam, Ninh Bình), cho bộ đội công binh và lực lượng vũ trang địa phương làm cầu, sửa đường, lập các bến vượt, các khu tập kết giả dọc tuyến sông Đáy để củng cố sự phán đoán của địch về ta. Bộ tư lệnh chiến dịch tăng cường giáo dục, quán triệt cho cán bộ, chiến sĩ các đơn vị tham gia chiến dịch ý thức phòng gian, giữ bí mật; chỉ đạo các trạm vô tuyến điện ở nguyên vị trí cũ phát sóng theo phiên trực thường lệ để chúng không nghi ngờ; tổ chức phong tỏa tin tức, bao vây, theo dõi nơi khả nghi, tiêu diệt các ổ tề điệp nằm vùng…

Bắc cầu phao tại bến Mậu A trong chiến dịch Tây Bắc (1952). Ảnh tư liệu.

Hoạt động nghi binh, lừa địch đạt kết quả đã tạo ra thế trận và niềm tin cho các đơn vị tiến hành chiến dịch. Với phương châm tác chiến “đánh điểm, diệt viện”, trong đợt 1 chiến dịch (từ ngày 14-10 đến ngày 25-10-1952), Bộ tư lệnh chiến dịch sử dụng các Trung đoàn 174 (Đại đoàn 316), Trung đoàn 141 (Đại đoàn 312) tiêu diệt hàng loạt vị trí quân địch dọc Đường 13, hỗ trợ đắc lực cho hai Đại đoàn 308, 312 (thiếu) bí mật luồn sâu tiến công tiêu diệt tiểu đoàn tăng cường chốt giữ cứ điểm kiên cố, giải phóng Phân khu Nghĩa Lộ. Đây là trận then chốt thứ nhất. Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ đạo các đơn vị cơ động đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn dù (có tăng viện) và một số chốt điểm trên đoạn đường Tú Lệ-Ít Ong, đập tan hầu hết phòng tuyến vòng ngoài của địch từ hữu ngạn sông Thao đến tả ngạn sông Đà, từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai.

Bước vào đợt 2 chiến dịch (từ ngày 7-11 đến ngày 20-11-1952), biết rõ địch tăng cường 5 tiểu đoàn thiện chiến (2 cho Lai Châu, 2 cho Nà Sản, 1 cho Điện Biên Phủ) và tập trung 17 tiểu đoàn bộ binh, công binh, pháo binh, xe tăng mở cuộc hành binh Lo-ren đánh vào hậu phương ta ở Phú Thọ để đỡ đòn cho Tây Bắc, nhưng Bộ tư lệnh chiến dịch vận giữ vững kế hoạch tác chiến, điều Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) về phối hợp với lực lượng tại chỗ đánh địch ở Phú Thọ; đồng thời, điều động cánh quân vu hồi từ Quỳnh Nhai (hướng thứ yếu) hình thành hai mũi tiến công Tuần Giáo, Lai Châu, Điện Biên Phủ; truy kích địch từ Thuận Châu về Sơn La. Trong giai đoạn 1, ta tổ chức lực lượng vượt sông Đà, tiến công tiêu diệt địch ở Mộc Châu và một loạt vị trí khác, làm cho 4 tiểu đoàn địch còn lại ở Chiềng Đông, Cò Nòi, Tạ Khoa, Yên Châu phải rút về Nà Sản. Trên hướng phối hợp, các Trung đoàn 36, 176 và lực lượng vũ trang địa phương đánh bại cuộc hành binh Lo-ren, buộc chúng phải tháo chạy khỏi Phú Thọ…

Tuy còn có những mặt hạn chế và tiến công không dứt điểm được tập đoàn cứ điểm Nà Sản, song với việc tiêu diệt và bắt hơn một vạn tên địch (kể cả hướng phối hợp) giải phóng gần 3 vạn km2 với 25 vạn dân, nối liền các vùng chiến lược Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Thượng Lào đã là một chiến công xuất sắc. Chiến thắng đó chứng tỏ bước phát triển mới về nghệ thuật nghi binh lừa địch bằng các biện pháp linh hoạt, sáng tạo. Bộ tư lệnh chiến dịch đã chọn chính xác hướng (khu vực) mục tiêu chủ yếu, thứ yếu và có phương pháp tác chiến phù hợp “đánh điểm, diệt viện”, phối hợp chặt chẽ giữa phía trước và phía sau, giữa vu hồi, luồn sâu, chia cắt, nên đã đạt được mục tiêu chiến dịch đề ra. Chiến thắng Tây Bắc đã làm thay đổi hình thái chiến trường, không chỉ giúp ta từng bước giữ vững quyền chủ động chiến lược; các lực lượng vũ trang nhân dân (đặc biệt là bộ đội chủ lực) tích lũy thêm kinh nghiệm tác chiến quy mô lớn hơn, mà còn tạo ra những điều kiện mới để quân và dân ta tiến lên giành nhiều thắng lợi quyết định trong Đông Xuân 1953-1954.

Đại tá Trần Tiến Hoạt