Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc 30 năm kháng chiến chống ngoại xâm đầy hi sinh, gian khổ của quân và dân ta để giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Góp phần vào thắng lợi cuối cùng đó có đóng góp rất lớn của đội ngũ những người làm công tác khoa học-kỹ thuật, nhất là trong hoạt động nghiên cứu cải tiến, chế tạo vũ khí, khí tài, chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam.
Nhờ sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, quân đội ta đã xây dựng được nhiều cơ sở nghiên cứu thiết kế, chế tạo và sửa chữa quốc phòng, có khả năng sản xuất hàng loạt vũ khí trang bị kỹ thuật căn bản có trình độ chuẩn hóa và chất lượng cao. Đội ngũ những người làm công tác khoa học-kỹ thuật từng bước được đào tạo cơ bản, nắm vững các nguyên lý thiết kế vũ khí hiện đại để cải tiến vũ khí phù hợp điều kiện nước ta. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1975, chúng ta đã nghiên cứu cải tiến, chế tạo hàng trăm chủng loại vũ khí, khí tài phục vụ trực tiếp cho lực lượng vũ trang ba thứ quân đánh địch hiệu quả trên các địa hình, môi trường rừng núi, sông nước và đô thị miền Nam. Nhiều loại vũ khí có tính năng rất ưu việt, gọn nhẹ, dễ sử dụng, uy lực chiến đấu cao, nhất là các loại vũ khí lục quân.
Để chống lại xe cơ giới và các loại xe tăng, thiết giáp của địch, từ đầu thập niên 1960, trên cơ sở khai thác số liệu kỹ thuật của súng chống tăng B40 của Liên Xô, kết hợp với kinh nghiệm chế tạo súng SKZ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, các nhà khoa học quân đội đã nghiên cứu thiết kế, chế tạo loại vũ khí chống tăng CT-62, sử dụng đạn lõm, tăng độ xuyên giáp lên tới hơn 300mm, xuyên bê tông dày 600mm; dùng gỗ nghiến thay thép quý mà ta không có để làm đuôi đạn; thiết kế ngòi đạn mới để bảo đảm an toàn khi bắn và vận chuyển. Trên cơ sở súng chống tăng CT-62, ta đã cải tiến, chế tạo súng chống tăng B40 và B41 phù hợp với điều kiện sử dụng trên chiến trường miền Nam. Từ mô phỏng mẫu súng chống xe cơ giới 14,5mm PERO-1947 có từ chiến tranh thế giới thứ hai, tận dụng số lượng nòng súng 12,7mm có nhiều trong kho, ta đã cải tiến súng 12,7mm thành súng bắn phát một. Súng 12,7mm cải tiến được thiết kế mới hoàn toàn hộp khóa nòng, khóa nòng và cơ cấu tiếp đạn phù hợp bắn phát một. Thân súng cũng chế tạo mới theo kiểu 2 chạc của súng RPK. Toàn bộ trọng lượng của súng nặng 11kg. Các năm 1966-1967, những khẩu súng 12,7mm cải tiến đã đưa vào chiến trường miền Nam chiến đấu. Một loại vũ khí chống xe cơ giới và xe tăng hiệu quả khác là vũ khí chống tăng AT được quân giới ta chế tạo từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, đạn AT sản xuất trước đây có nhiều nhược điểm: Độ chính xác chưa cao, độ xuyên thép chỉ đạt từ 30mm đến 40mm, chất lượng đạn không đồng đều… Để tạo vũ khí AT thích ứng với yêu cầu của chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới, ta đã cải tiến thành công đạn AT với tính năng tốt hơn đưa vào chiến đấu.
Nghiên cứu thiết kế, cải tiến làm cho vũ khí gọn nhẹ, phù hợp với điều kiện mang vác và tác chiến linh hoạt trên chiến trường là hướng ưu tiên trong nghiên cứu của quân đội ta. Súng cối 120mm của Liên Xô và Trung Quốc nặng 300kg, khi hành quân di chuyển phải dùng xe cơ giới, đưa súng vào chiến trường rất khó khăn. Ta đã nghiên cứu cải tiến, bỏ toàn bộ phần bánh xe, trục và càng kéo; bệ cối được chia làm hai phần nặng 27kg, khi bắn thì ghép lại bằng các móc cài. Nòng súng cối được tiện bớt, chấp nhận tầm bắn giảm từ 9,5km xuống còn 4km, lắp thêm hai đai để bảo đảm độ bền cho nòng; giá súng được tháo rời để dễ mang vác. Súng cối 120mm cải tiến chỉ còn 180kg, giảm 40% trọng lượng. Tính đến cuối năm 1968, ta đã cải tiến hàng trăm khẩu đưa vào chiến trường miền Nam.
 |
Đạn ĐKB nối tầng trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam. Ảnh: Đình Xuân
|
Pháo cối 160mm có uy lực chiến đấu lớn, bắn cầu vồng, có khả năng tiêu diệt và chế áp sinh lực và hỏa lực của địch, dùng chủ yếu đánh công sự, nhưng quá nặng, cồng kềnh, hạn chế sức cơ động trên chiến trường, đặc biệt là ở nơi nhiều sông ngòi, đầm lầy. Tháng 11-1971, ta tiến hành nghiên cứu cải tiến nhằm giảm nhẹ bệ cối bằng cách thiết kế tách ra từng phần để có thể mang vác đến địa điểm cần thiết và lắp ghép dễ dàng; cắt bớt một phần nòng súng, nhưng vẫn bảo đảm cự ly bắn 2.000m trở lên; giảm thiết bị lắp đạn. Sau khi cải tiến, trọng lượng toàn bộ của khẩu cối chỉ nặng từ 300kg đến 350kg. Năm 1971, hai khẩu cối 160mm đầu tiên được chế tạo thử nghiệm. Việc sử dụng súng sau khi cải tiến cũng đơn giản hơn. Cũng dựa theo mẫu súng cối M160 của Liên Xô, ta đã thiết kế, chế tạo súng cối 160mm với các giải pháp rất sáng tạo như ghép nối hai máy tiện để tạo ra băng máy đủ kích thước cần thiết, tự thiết kế chế tạo các bộ gá lắp, dụng cụ cắt gọt, dụng cụ gia công lỗ sâu chế tạo nòng súng, gia công bệ cối bằng phương pháp dập nòng, tận dụng nòng pháo cũ... Tháng 12-1974, súng cối 160mm do ta sản xuất đã bắn thử thành công.
Giàn phóng rốc-két nhiều nòng BM-14 đặt trên xe GAZ-63 do Liên Xô viện trợ được ta nghiên cứu thiết kế, tháo rời từng nòng để bộ đội dễ mang vác, bệ phóng này được đặt tên là A-12 và xây dựng phương pháp bắn ứng dụng. Đây là công trình có sự phối hợp của nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học trong và ngoài quân đội, được Binh chủng Pháo binh đánh giá là một sáng kiến lớn trong khai thác có hiệu quả vũ khí viện trợ của nước ngoài. Trên cơ sở công trình A-12, ta đề nghị Liên Xô sản xuất hàng loạt rốc-két ĐKB mang vác gọn nhẹ để chi viện cho chiến trường miền Nam. Sau này, ta còn triển khai nghiên cứu, chế tạo rốc-két ĐKB nối tầng để tăng cự ly phóng, đã giải quyết thành công các vấn đề kỹ thuật phức tạp, bệ phóng gọn nhẹ, có thể lắp ghép tại chỗ và ghép 2 động cơ cho ĐKB. Đầu năm 1970, rốc-két ĐKB nối tầng chi viện cho chiến trường, được quân và dân miền Nam sử dụng tập kích địch hiệu quả.
Giang Hồng Cương