Hiệp định Pa-ri sắp có hiệu lực ở Quảng Trị, đó là những ngày cuối tháng 1 năm 1973. Địch dồn lực lượng lớn liều lĩnh mở cuộc hành quân mang tên "Tăng-gô Xi-ty” đánh chiếm cảng Cửa Việt.

Cửa Việt 1967 nhìn từ trực thăng HU1B. Ảnh: Internet
Cửa Việt một đầu mối giao thông đường thủy quan trọng thuộc địa phận hai xã Triệu Vân và Triệu Trạch thuộc huyện Triệu Phong nằm sâu trong vùng giải phóng của ta.

Đánh chiếm cảng Cửa Việt địch muốn thực hiện ý đồ cắt đứt sự chi viện to lớn bằng đường biển từ hậu phương ra tiền tuyến của ta, trực tiếp là chi viện cho chiến trường Trị Thiên; đồng thời bịt cửa khẩu của Chính phủ cộng hòa miền Nam Việt Nam giao lưu với quốc tế bằng đường biển. Với địch, nếu chiếm được cảng Cửa Việt, chúng sẽ thiết lập được một đầu cầu quan trọng để đưa binh lính, súng đạn ra đánh chiếm vùng giải phóng, thực hiện âm mưu phá hoại Hiệp định Pa-ri về sau này.

Cuộc hành quân "Tăng-gô Xi-ty” do cố vấn Mỹ trực tiếp vạch kế hoạch, tướng A.BRam và tướng Héc chủ trì, tư lệnh quân đoàn 1 Ngô Quang Trưởng trực tiếp tổ chức thực hiện. Lực lượng cuộc hành quân gồm: Lữ đoàn đặc nhiệm mới được tổ chức (có 3 tiểu đoàn), lữ đoàn 147 (2 tiểu đoàn), lữ đoàn 258 (2 tiểu đoàn), 2 tiểu đoàn bảo an, 3 thiết đoàn (17, 18, 20), 4 tiểu đoàn pháo (70 khẩu), 4 tàu LCU (tàu đổ bộ), hải quân Mỹ (trong đó có 5 tàu khu trục của hạm đội 7 tham gia) chi viện hỏa lực cùng không quân; Toàn bộ cuộc hành quân do sư đoàn lính thủy đánh bộ chỉ huy, sở chỉ huy nhẹ của địch đặt ở Đa Nghi. Bằng một cuộc hành quân lớn, đánh vào sát thời điểm ngừng bắn theo Hiệp định Pa-ri, Mỹ - ngụy hòng tạo được yếu tố bất ngờ để nhanh chóng chiếm cảng Cửa Việt. Trước đó với 3 cuộc hành quân chúng chưa làm nổi.

Cuộc hành quân "Tăng-gô-xi-ty” bắt đầu ngày 25 tháng 1 năm 1973. Sau khi sử dụng 70 lần chiếc B52 và pháo hạm bắn trên 60.000 quả đạn pháo các cỡ vào khu vực Vĩnh Hòa, Long Quang, Thanh Hội, Cửa Việt. . . địch bắt đầu nổ súng dồn dập đánh vào các bàn đạp trên toàn tuyến phòng ngự của ta ở cánh đông. Đội hình tiến công của địch chia làm 3 hướng:

Lữ đoàn đặc nhiệm và chi đoàn thiết giáp đột kích hướng chủ yếu ven biển vào Thanh Hội. Lữ đoàn 147 và 2 chi đoàn thiết giáp đánh vào Long Quang. Lữ đoàn 258 đánh vào Nại Cửu, Chợ Sải.

Đêm ngày 25 tháng 1, lữ đoàn đặc nhiệm dùng 1 tiểu đoàn bí mật đánh vào Thanh Hội. Lữ đoàn 258 sử dụng tiểu đoàn 3 đánh Nại Cửu, Chợ Sải. Sáng ngày 26 tháng 1 lữ đoàn 147 đánh vào Long Quang. Cả 3 hướng quân địch đều bị quân ta đánh trả quyết liệt, bị thiệt hại phải dừng lại củng cố. Trong đêm ngày 26 tháng 1 các trung đoàn 64, 101 đã khẩn trương bổ sung kế hoạch phòng thủ khu vực cảng Cửa Việt, ta hình thành 3 tuyến phòng ngự liên hoàn từ Xam Tuân đến Hà Tây sẵn sàng đánh trả các đợt tiến công mới của địch.

Ngày 27 tháng 1 địch tập trung bom pháo đánh phá ác liệt các tuyến chốt của ta. Lữ đoàn đặc nhiệm được gần 100 xe tăng, xe bọc thép mới toanh chi viện mở liên tiếp 4 lần tấn công vào Thanh Hội. Lực lượng chốt giữ của ta chiến đấu kiên cường chặn địch, đến chiều địch mới chiếm được Thanh Hội và một phần làng Vĩnh Hoà, ta tiếp tục tổ chức lực lượng phản kích để giành lại. Trong khi đó lữ đoàn 147 được khoảng 40 xe tăng chi viện đánh vào Long Quang, An Trạch, địch chiếm được một phần trận địa của ta nhưng ngay đêm đó Trung đoàn 48 phản kích chiếm lại được trận địa.

Mặc dù bị thiệt hại nặng nhưng do yêu cầu phải chiếm Cửa Việt trước giờ ngừng bắn (8 giờ ngày 28 tháng 1) địch vẫn điều thêm quân, tăng thêm xe pháo cho sư đoàn lính thủy đánh bộ tiếp tục tấn công. Chúng thay đổi cách đánh, không đột phá chính diện mà lợi dụng ban đêm luồn qua khe hở giữa các trận địa phòng ngự của ta tiến ra Cửa Việt.

23 giờ 30 ngày 27 tháng 1, lợi dụng lúc gió to, sóng lớn, nước thủy triều xuống, Lữ đoàn đặc nhiệm bí mật tiến theo mép nước ra Cửa Việt. Ta mất cảnh giác nên cuộc tiến công của địch thuận lợi. Đến 1 giờ 30 ngày 28 tháng 1 ta mới phát hiện được quân địch. Bộ binh Trung đoàn 101 và 5 xe tăng, xe bọc thép đánh vào đội hình địch ở đông Hà Tây, Vĩnh Hòa, diệt được 8 xe, cắt đội hình địch làm hai nhưng một bộ phận địch vẫn tiến về cảng đánh vào các chốt của ta ở Hà Tây, Cửa Việt, điểm cao 12. Đến 7 giờ ngày 28 tháng 1 địch hình thành 3 cụm quân: Cụm 1 có 1 đại đội và 20 xe tăng, xe M113 ở cách Cảng Mỹ (về phía nam) khoảng 700 m. Cụm 2 khoảng 1 đại đội và 10 xe tăng ở đông thôn Hà Tây cách cảng Cửa Việt khoảng 1.500m. Cụm 3 có hai trung đội và 8 xe tăng cách điểm cao 4 khoảng 200 m về phía đông bắc.

Sau khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực, (8 giờ ngày 28 tháng 1) địch lấn tiếp ra nam điểm cao 4 (cách khoảng 600 m) một cụm quân nữa, cụm quân này có hai trung đội và 12 xe tăng, xe M113. Lực lượng địch ở phía sau tiếp tục tăng cường lên, thực hiện âm mưu cắm cờ lấn đất. Trước hành động đó của địch, Bộ tư lệnh Mặt trận lệnh cho Bộ tư lệnh Cánh Đông kịp thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc của cán bộ chiến sĩ, nhanh chóng đưa bộ đội trở lại tư thế chiến đấu, đồng thời khẩn trương điều động lực lượng dự bị tăng cường cho các trận địa đánh chiếm lại các vị trí đã bị địch lấn chiếm.

Các tiểu đoàn 1 (trung đoàn 48), 7 (Trung đoàn 271), 38 (bộ đội địa phương), 8 (Trung đoàn 64), 1 (Trung đoàn 27) từ bắc Cửa Việt và Chợ Sải được lệnh vượt sông vào vị trí chiến đấu. 1 giờ ngày 29 tiểu đoàn 38 đánh cụm 1 và cụm 2 diệt 50 tên và 5 xe. Một đại đội của tiểu đoàn 8 (trung đoàn 64) đánh địch ở điểm cao 4 và chốt lại đó. Địch thu lại còn 3 cụm, sau đó chúng tăng viện và tổ chức thêm 1 cụm mới tại bắc Vĩnh Hòa gồm 1 đại đội và 4 xe tăng.

Bộ tư lệnh Mặt trận điều Trung đoàn 24 Sư đoàn 304 và đại đội xe tăng T54 từ Miếu Bái Sơn sang tăng cường cho các trận địa chốt ở Thanh Hội, Cửa Việt, để tăng cường lực lượng cho Cánh Đông, lệnh cho Trung đoàn 66 cơ động xuống Vinh Quang làm lực lượng dự bị cho hướng đông đồng thời cử các đồng chí Cao Văn Khánh, Phó tư lệnh Mặt trận, Hoàng Minh Thi, Phó chính ủy và đồng chí Doãn Tuế, Tư lệnh pháo binh của Mặt trận xuống trực tiếp cùng Bộ tư lệnh Cánh Đông tổ chức lực lượng chiến đấu.

Sau khi di chuyển sở chỉ huy từ Hà Thượng (Do Linh) vào Thanh Xuân để trực tiếp chỉ huy bộ đội chiến đấu, ngày 30 tháng 1 Bộ tư lệnh Cánh Đông tổ chức đội hình đánh trận phản đột kích Cửa Việt: Bộ phận chặn đầu gồm 2 đại đội của 2 trung đoàn 101 và 48, bộ phận K5 Hải quân, công binh Sư đoàn 320B có nhiệm vụ giữ cảng, Phó Hội, Hà Tây, kiên quyết ngăn chặn địch trước các chốt, không cho địch phát triển lên Cửa Việt. Bộ phận khóa đuôi gồm có Trung đoàn 64 (thiếu), tiểu đoàn 6, Trung đoàn 24, tiểu đoàn 2, Trung đoàn 101 chốt tại Vĩnh Hòa đánh địch tăng viện từ Thanh Hội lên và chặn bọn địch rút chạy từ Cửa Việt xuống. Bộ phận chủ lực, gồm Trung đoàn 101 (thiếu), Trung đoàn 24 (thiếu), tiểu đoàn 38 (thiếu) và tiểu đoàn 7 Trung đoàn 271 có nhiệm vụ tiêu diệt địch từ Xóm Mộ lên đến cảng.

12 giờ ngày 30 tháng 11 ta nổ súng tấn công địch. Trận đánh này kết quả thấp do ta nổ súng không đồng loạt. Kịp thời rút kinh nghiệm, ngày 31 tháng 01 ta tập trung 5 tiểu đoàn của bộ phận chủ lực có một số xe tăng, xe bọc thép đồng loạt tiến công vào các cụm quân địch ở phía nam cảng. Các trận địa pháo chiến dịch, các trận địa pháo chống tăng ở bờ bắc bao gồm ĐKZ75ly pháo 85 ly, B72 các đội hỏa khí chống tăng đi cùng bắn mãnh liệt vào cụm quân địch diệt nhiều bộ binh và xe tăng. Do nổ súng tiến công đồng loạt vào cả 5 cụm quân địch nên chúng không thể hỗ trợ được cho nhau, đội hình nhanh chóng rối loạn. Đến 8 giờ 30 ngày 31 tháng 1 ta diệt xong cả ba cụm quân địch ở phía nam cảng, các cụm quân địch còn lại chống cự yếu ớt rồi tháo chạy. 10 giờ 30 ngày 31 tháng 1, từ cảng Cửa Việt đến Vĩnh Hòa không còn bóng giặc, tuyến chốt từ Thanh Hội đến Long Quang, Chợ Sải được khôi phục. Cuộc hành quân "Tăng-gô xi-ty" của địch bị đánh bại hoàn toàn.

12 giờ 30 ngày 31 tháng 1 năm 1973 Bộ tư lệnh Mặt trận ra lệnh ngừng tiến công, chuyển vào thế bố trí mới để tiến hành cuộc đấu tranh chống địch lấn chiếm giữ vững vững giải phóng. Trong đợt chiến đấu từ ngày 26 đến ngày 31 tháng 1 năm 1973 ta đã tiêu diệt 2.330 tên địch, bắt gần 200 tên, phá hỏng 113 xe tăng, xe bọc thép, thu 13 chiếc, bắn rơi 5 máy bay, phá hủy 10 khẩu pháo, bắn cháy 1 tàu, thu nhiều súng đạn, quân trang quân dụng của địch.

Với chiến thắng Cửa Việt, quân và dân ta đã đập tan âm mưu tráo trở, lật lọng của Mỹ - ngụy đối với Hiệp định Pa-ri vừa ký kết. Sau đòn trừng trị đích đáng này, Mỹ - ngụy không dám mở những cuộc hành quân lớn ra vùng giải phóng Quảng Trị trong suốt thời gian thi hành hiệp định.

PHẠM PHÁN (TH)