Nơi đây, những cánh bay của Lữ đoàn Không quân vận tải 918 vẫn ngày đêm cất cánh, góp phần giữ bình yên cho bầu trời Thủ đô.

Sân bay Gia Lâm được xây dựng từ thời Pháp thuộc. Sau khi đập tan cứ điểm Điện Biên Phủ, trong đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô có lực lượng Ban Nghiên cứu sân bay về tiếp quản và đưa sân bay Gia Lâm vào hoạt động. Sau ngày đất nước thống nhất, từ sân bay Gia Lâm, những cánh bay của Lữ đoàn 918 đã cất cánh đi khắp mọi miền Tổ quốc, vươn ra tận Trường Sa. Bên cạnh sân bay Gia Lâm, dòng sông Hồng mênh mông sóng nước vẫn ngày đêm rì rầm kể chuyện với bờ bãi. Con sông quê hương ấy trở thành một địa tiêu thân thuộc trong hành trình đi về của những phi công bay trên bầu trời Tổ quốc.

leftcenterrightdel
Niềm vui của phi công Lữ đoàn 918 sau những chuyến bay an toàn. Ảnh: Vũ Đức Nam.
Khi ánh nắng chan hòa khắp sân bay cũng là lúc những tiếng ì ầm của động cơ máy bay vang lên. Trước khi lên đài chỉ huy, Đại tá Chu Văn Hải, Phó lữ đoàn trưởng quân huấn, bắt chặt tay Thiếu tá Nguyễn Kim Đương-Lái chính máy bay An-26 cùng lời nhắn gửi: “Chúc đồng chí bay an toàn!”. Cái bắt tay thân tình như muốn gửi gắm cả niềm tin và hy vọng vào người phi công đã từng bay trên 4 loại máy bay với hơn 1.000 giờ bay an toàn. Là cán bộ phi đội đồng thời là giáo viên bay, mỗi lần cầm lái cất cánh, Thiếu tá Nguyễn Kim Đương rất thận trọng, tỉ mỉ. Trước ngày bay, anh nghiên cứu nắm chắc nội dung bài bay, vẽ sơ đồ cẩn thận, chu đáo. Hôm nay, anh cùng đồng đội thực hiện bài bay vòng kín. Mọi công tác chuẩn bị đã hoàn thành. Được lệnh của chỉ huy bay, chiếc An-26 số hiệu 251 từ sân đỗ lăn ra đối chuẩn đường băng, sau đó nhấc bánh mũi từ từ cất cánh. Ở độ cao 150m với vận tốc 300km/h, Thiếu tá Nguyễn Kim Đương báo cáo rành rọt về đài chỉ huy: “Báo cáo chỉ huy bay! Vòng 1, nghiêng 15 độ, vòng lên lấy độ cao”. Máy bay tiếp tục lên độ cao 400m sau đó về vòng 2.

Cùng theo dõi hoạt động bay, Thiếu tá Ngô Đức Phương, Phi đội trưởng Phi đội 1 tâm sự về những trải nghiệm của mình khi bay qua sông Hồng. Với anh, mỗi lần bay lại có những ấn tượng, cảm xúc riêng. Bay qua sông vào mùa nước cạn cũng khác khi bay vào mùa nước lên. Tùy thuộc vào mực nước, lái chính điều khiển máy bay sao cho đến giữa sông độ cao chỉ còn 150m. Ở độ cao này, phi công có thể quan sát được những chuyến phà ngược xuôi, những con thuyền lẻ loi nằm im gác mái. Phóng tầm mắt ra xa, ngược lên phía Bắc là những nhịp cầu Long Biên, Chương Dương gợi bao nhớ thương, xuôi phía nam là cầu Thanh Trì, Vĩnh Tuy nối đôi bờ sông mênh mông sóng nước. Càng hạ thấp độ cao, hình ảnh những ngôi nhà, hàng cây, con đường càng hiện ra rõ nét, thân thuộc. Những khi bay đêm, cảm xúc như được thăng hoa bởi ánh đèn lấp lánh ở đôi bờ sông đẹp như dạ hội hoa đăng. Những dấu ấn ấy mãi là kỷ niệm đẹp theo suốt cuộc đời người lính bay.

Hết thời gian kết hợp địa tiêu sông Hồng cải hướng vòng 3 chuẩn bị thời cơ vào vòng 4. Máy bay bắt đầu giảm dần độ cao. Bay đến đài xa nằm ở hữu ngạn sông Hồng, Phi công lái chính Nguyễn Kim Đương tiếp tục báo cáo: “Báo cáo chỉ huy bay, 251 càng cánh tà thả tốt!”. Khi tới mép sông Hồng, độ cao máy bay là 200m, sang bên bờ tả ngạn sông chỉ còn 100m. Thời gian bay qua "dòng sông Mẹ" diễn ra rất nhanh. Nhưng đối với những người phi công đó là khoảnh khắc thật thiêng liêng và hạnh phúc bởi những cánh bay của Không quân nhân dân Việt Nam được in hình dưới mặt nước Hồng Hà chở nặng phù sa. Cứ theo mép nước sông, phi công tính toán để hạ dần độ cao. Dưới sự điều khiển của tổ bay, máy bay 251 tiếp đất hạ cánh, từ từ lăn về sân đỗ kết thúc bài bay an toàn.

Ở dưới mặt đất, đồng đội đón đợi tổ bay trở về trong niềm vui hân hoan. Những cái bắt tay thật chặt, những lời chúc mừng nồng ấm như tiếp thêm sức mạnh để các anh thêm vững tin bay lên làm chủ bầu trời. Trong hành trình không ngừng nghỉ ấy, mỗi tên làng, tên phố, mỗi ngọn núi, con sông nơi các anh bay qua đều trở nên thân thuộc. Và bên sân bay Gia Lâm, dòng sông Hồng đã gắn bó với những người lính bay như một lẽ tự nhiên. Mỗi khi cất cánh, trở về, nhìn thấy con sông quê hương, các anh như nhìn thấy sự bình yên ở "dòng sông Mẹ" của nước Việt thân yêu.

Ghi chép của VŨ DUY