Trong một trận đánh, nhất là đánh địch phòng ngự trong công sự vững chắc, dù thời gian chuẩn bị ít hay nhiều đều phải tiến hành tốt công tác nắm địch trước khi nổ súng và trong quá trình chiến đấu. Trước khi nổ súng có nắm chắc địch, người chỉ huy mới chọn đúng hướng tiến công, đột phá vào nơi mỏng yếu của địch. Bố trí binh hỏa lực trên các hướng, các mũi phù hợp sẽ tạo được thế mạnh đánh địch ngay từ đầu… Trong quá trình chiến đấu có nắm chắc địch mới chủ động tăng cường lực lượng, điều chỉnh thế trận, nhanh chóng, xử trí các tình huống chính xác, đạt hiệu quả cao. Trận tiến công cứ điểm Cầu Lồ năm 1954 là một ví dụ.
Tiểu đoàn 80, Trung đoàn 36, Đại đoàn 308 được tăng cường Đại đội bộ binh 41 của Tiểu đoàn 84, 2 khẩu sơn pháo 75mm, 3 khẩu ĐKZ 75mm, 2 khẩu cối 120mm. Cứ điểm Cầu Lồ, một cứ điểm trọng yếu, gồm 8 lô cốt bố trí xung quanh (trong đó có 2 lô cốt boong ke) nhằm ngăn chặn các cuộc tiến công của chủ lực ta. Lực lượng địch có khoảng 100 tên, vũ khí có 23 khẩu đại liên, 20 trung liên, một khẩu cối 81mm, 3 khẩu cối 60mm, còn lại là tiểu liên và súng trường.
1 giờ 15 phút ngày 14-7-1954, tiểu đoàn nổ súng tiến công. Trên hướng chủ yếu, Đại đội bộ binh 62 được tăng cường hỏa lực sau 16 phút đột phá chiếm được lô cốt 2. Nhưng sau đó, pháo 105mm của địch ở Đồi Ngô, Cẩm Lý bắn chặn làm cho đội hình của đại đội bị chia cắt, bộ phận xung kích 2 ở ngoài không vào được, một số cán bộ, chiến sĩ bị thương. Trên hướng thứ yếu, Đại đội Bộ binh 61 cũng được tăng cường hỏa lực đột phá vào lô cốt 1, nhưng bị hỏa lực địch bắn lướt sườn ghìm chân trước cửa mở…
Sau khi chiếm được lô cốt số 1, 2, 3, 4, sở chỉ huy, trung tâm thông tin liên lạc, trận địa súng cối của địch… và không thấy tiếng súng trong cứ điểm, chỉ còn đạn pháo của địch từ Đồi Ngô, Cẩm Lý bắn vào khu vực cửa mở trên hướng bắc và tây bắc, tiểu đoàn trưởng cho rằng ta đã giải quyết xong cứ điểm, nên quyết định cho các bộ phận tổ chức củng cố đội hình, chuyển thương binh tử sĩ ra ngoài, cho hỏa lực rút về vị trí tập kết. Khi thấy có tiếng súng máy từ phía nam bắn lên phía bắc cứ điểm, tiểu đoàn trưởng và cán bộ đại đội mới biết lô cốt boong ke số 6 ở phía nam và lô cốt số 8 ở phía tây nam vẫn còn nguyên vẹn chưa bị tiến công. Tiểu đoàn trưởng lệnh cho bộ phận ĐKZ nhanh chóng quay trở lại và tổ chức tiến công, nhưng bị pháo binh và máy bay địch đánh phá ác liệt vào khu vực cửa mở và khu trung tâm, làm cho việc cơ động lực lượng của ta gặp nhiều khó khăn, bộ đội bị thương vong. Đến 17 giờ 30 phút cùng ngày, phi pháo của địch thưa dần, tranh thủ thời cơ tiểu đoàn tổ chức tiến công, nhưng cả lô cốt số 6 và số 8 địch đã bí mật bỏ chạy.
Từ thực tiễn trận đánh trên cho thấy, công tác nắm địch của tiểu đoàn còn nhiều khuyết điểm, như không có kế hoạch phòng chống pháo binh của địch từ Đồi Ngô, Cẩm Lý, Phủ Lạng Thương bắn tới và cũng không có kế hoạch phòng tránh máy bay khi chuyển trận đánh sang ban ngày. Tiểu đoàn không nắm chắc tình hình địch trong các lô cốt, nên khi sử dụng lực lượng dự bị (Đại đội 41) vào chiến đấu thì lại đến chỗ không có địch, nên không có tác dụng tăng cường sức đột kích cho các hướng.
Cũng do nắm địch không chắc, nên đơn vị chủ quan không dự kiến kế hoạch đánh địch ban ngày, cho rằng địch phòng ngự mạnh như ở Điện Biên Phủ ta đã đánh thắng, thì ở cứ điểm Cầu Lồ, với binh hỏa lực của ta hơn hẳn địch, chỉ cần giải quyết trong một đêm là xong. Trong chiến đấu, nắm chắc địch là một yêu cầu quan trọng bởi “biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng”…
LÊ VĂN BẢO