QĐND - Sau nhiều lần tỉ tê, trò chuyện, tôi mới được Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Trường Xuân kể cho nghe chuyện hai lần hoãn cưới của ông...
Thành anh hùng nhờ tự học
Trong phòng khách rộng chừng hơn chục mét vuông tại phố Nguyễn Khang (Yên Hòa, Cầu Giấy, Hà Nội), ông kể cho tôi nghe những kỷ niệm hào hùng về một thời trận mạc năm xưa:
- Năm 1965, sau khi kết thúc khóa huấn luyện tân binh tại Sư đoàn 320, tôi được điều về làm trắc thủ góc tà thuộc Đại đội 1, Tiểu đoàn 66, Trung đoàn Tên lửa 275. Từ đó đến hết Chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” năm 1972, tôi tham gia 46 trận đánh, cùng đồng đội tiêu diệt 16 máy bay Mỹ.
- Là trắc thủ góc tà, sao bác lại diệt được máy bay?
- Trắc thủ góc tà làm nhiệm vụ xác định tầm cao thấp của mục tiêu, không diệt được máy bay. Tôi diệt máy bay trong cương vị khác.
Rồi ông cho hay: Tháng 11-1971, đồng chí Trịnh Văn Hưng, sĩ quan điều khiển, kiêm Trưởng xe điều khiển đi học ở Liên Xô, ông được đơn vị giao nhiệm vụ thay thế ông Hưng. Lúc ấy, ông rất lo vì bản thân chưa được đào tạo cơ bản. Nhưng sau một thời gian được đơn vị bồi dưỡng, bản thân tranh thủ ngày, đêm tự nghiên cứu, ông đã nhanh chóng nắm vững kỹ thuật, sử dụng thành thạo trang bị, khí tài. Những tình huống phức tạp như: Nhiều nhiễu, cùng một lúc máy bay địch bay vào nhiều hướng, nhiều loại, ông vẫn bình tĩnh xử lý được. Đến bây giờ, ông vẫn còn nhớ như in trận đánh đầu tiên khi ở cương vị mới.
Đêm 23 rạng ngày 24-4-1972, khi đang luyện tập kíp chiến đấu thì Tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho ông:
- B52 sắp vào đánh Thanh Hóa, ngừng luyện tập, chuyển đài về trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
Sau khi làm công tác chuẩn bị, mục tiêu vào vùng phóng, 3 quả tên lửa được ông phóng lên. Kết thúc trận đánh, cấp trên biểu dương đơn vị đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đến 6 giờ 30 phút sáng hôm sau, Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo:
- Vào 0 giờ ngày 24-4-1972, quân và dân Thanh Hóa đã hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, tiêu diệt 1 máy bay B-52 của Mỹ.
Khi ấy, đơn vị mới biết đã bắn rơi máy bay B-52, mọi người mừng không sao kể xiết.
Nhờ tinh thần tự học, từ một trắc thủ góc tà, Nguyễn Trường Xuân đã trở thành “sĩ quan” điều khiển có kinh nghiệm. Sau trận đầu thắng lợi, ông còn tham gia nhiều trận đánh khác trên bầu trời Thanh Hóa. Vì vậy, ngày 31-12-1973, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân, khi mới là thượng sĩ.
 |
Vợ chồng anh hùng Nguyễn Trường Xuân. |
Hai lần hoãn cưới
Được biết, ông đã hai lần hoãn cưới để thực hiện nhiệm vụ Tổ quốc giao phó, tôi đề nghị kể nhiều lần, ông mới bình thản nhấp một ngụm nước trà, rồi kể bằng giọng chậm rãi:
- Bà ấy là người cùng quê với tôi (Cao Thành, Ứng Hòa, Hà Nội). Năm 1970, đang chiến đấu bảo vệ tuyến giao thông Quảng Bình, tôi được đơn vị giao nhiệm vụ đưa khí tài ra Bắc sửa chữa. Trong chuyến công tác này, qua mai mối của người bác họ, tôi đã làm quen với cô ấy (nữ công nhân bưu điện Nguyễn Thị Chất). Từ đó, qua những cánh thư chúng tôi yêu thương nhau và hẹn ngày tổ chức đám cưới.
Mùa xuân năm 1971, được sự nhất trí của hai bên gia đình, tôi báo cáo và được đơn vị cho nghỉ phép về quê tổ chức đám cưới. Khi hai bên gia đình ở quê đã chuẩn bị đầy đủ cho lễ cưới thì đơn vị có nhiệm vụ khẩn cấp. Đồng chí Trần Nhiệm, Chính ủy Trung đoàn 275 lúc bấy giờ đã gửi thư về gia đình thông báo: Do yêu cầu nhiệm vụ nên đồng chí Xuân không thể về tổ chức hôn lễ như kế hoạch được, mong gia đình thông cảm. Thế là đám cưới bị hoãn lại.
Sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, Tết năm 1973, tôi lại được đơn vị tạo điều kiện cho nghỉ phép về quê cưới vợ. Chiều 6-2-1973, hôn lễ được tổ chức xong xuôi thì chiến sĩ Lê Xuân Đức, Trợ lý vật tư (khi ấy ra Bắc nhận vật tư trang bị, đồng thời được giao nhiệm vụ về gia đình đón đồng chí Xuân) của đơn vị xuất hiện, anh gửi gia đình bức thư của đồng chí Trần Nhiệm, Chính ủy Trung đoàn 275 với nội dung: Nếu chưa tổ chức đám cưới thì tiếp tục hoãn lại lần hai, còn nếu tổ chức đám cưới rồi thì phải lên đường về đơn vị ngay để nhận nhiệm vụ. Thế là ngay tối hôm đó, chú rể theo xe về đơn vị. Sau ngày tổ chức đám cưới, 8 tháng sau chúng tôi mới được hưởng hạnh phúc đêm tân hôn.
- Chuyện đám cưới của hai bác thật đặc biệt, chắc là có một không hai đấy ạ!
- Trong thời điểm chiến tranh ác liệt, cả dân tộc dồn sức cho kháng chiến, ai vào hoàn cảnh ấy cũng vậy chứ riêng gì mình!-ông nói.
Rồi ông nói nhỏ với tôi rằng: So với biết bao đồng đội khác, ông còn may mắn chán. Nhiều đồng đội của ông, có người cưới rồi, chưa kịp hưởng hạnh phúc tân hôn đã lên đường vào chiến trường và vĩnh viễn không trở lại. Cho nên, thi thoảng ông vẫn lén nhìn trộm bà, lòng vừa thầm cảm ơn sự may mắn của số phận, vừa trào dâng nỗi niềm với những người đồng đội chung cảnh ngộ nhưng không có được may mắn như ông...
Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN CHUNG