LTS: Trong đoàn cựu chiến binh Liên Xô (trước đây) sang thăm Việt Nam đúng dịp kỷ niệm 40 năm Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”, nhiều người từng là chuyên gia, cố vấn quân sự về tên lửa phòng không, thậm chí trực tiếp tham gia chiến đấu cùng bộ đội Việt Nam đánh máy bay Mỹ. Các cựu chiến binh Bê-la-rút còn mang theo và giới thiệu những số báo ra gần đây của Báo Quân đội Bê-la-rút, đăng trang trọng nhiều kỳ về Chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972, qua lời kể và nhật ký của Đại tá V.M. La-gu-tin, cựu chuyên gia quân sự tại Việt Nam, dưới tiêu đề “12 ngày đối đầu”. Tác giả loạt bài viết là Đại tá Xéc-gây Rô-xin-xki, nguyên giảng viên Học viện Quốc phòng, Cộng hòa Bê-la-rút. Báo Quân đội nhân dân xin trích dịch và giới thiệu cùng bạn đọc.
Ấn tượng Việt Nam
Đại tá V.M. La-gu-tin, nguyên giảng viên Trường Tên lửa Min-xcơ (Cộng hòa Bê-la-rút), từng sang Việt Nam làm chuyên gia quân sự, giảng viên về xác định tọa độ mục tiêu và tên lửa tại Trường Sĩ quan Phòng không từ tháng 10-1972 đến tháng 9-1973, trực tiếp chứng kiến chiến dịch 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972.
Mở đầu loạt bài viết đăng trên Báo Quân đội Bê-la-rút, xuất bản cuối tháng 11-2012, tác giả Xéc-gây Rô-xin-xki viết:
“… 40 năm trước, vào tháng 12-1972, miền Bắc và miền Nam Việt Nam đã chiến đấu bảo vệ nền độc lập và bằng chiến thắng thuyết phục, đã đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng B-52 của Mỹ, tạo bước ngoặt trong cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, với bao tổn thất, hy sinh, chống lại cuộc xâm lăng phi nghĩa của chủ nghĩa đế quốc. Các hoạt động quân sự do Mỹ triển khai ở Việt Nam là cuộc xung đột vũ trang lớn nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Các cán bộ, sĩ quan Liên Xô thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại miền Bắc Việt Nam đến giờ vẫn không thể nguôi ngoai khi nhớ đến những ngày tháng Chạp năm 1972.
 |
Giảng viên La-gu-tin với các học viên phòng không Việt Nam tại Sơn Tây năm 1972. Ảnh từ Báo Quân đội Bê-la-rút. |
Đại tá V.M. La-gu-tin chia sẻ hồi ức về những tháng ngày đặc biệt khốc liệt đó: Chúng tôi được cử sang Việt Nam công tác dưới danh nghĩa “các chuyên gia trồng và chế biến mía đường”, nhưng thực chất là một nhóm gồm 14 giảng viên quân sự, tuổi trung bình khoảng 35. Không có bất kỳ giấy tờ gì thể hiện chúng tôi liên quan đến quân đội được mang theo, chắc là để hoàn thiện việc “đánh lạc hướng trinh sát của đối phương”. Chúng tôi mặc trang phục “kiểu dân sự”, với quần, áo len, giày ấm, mang theo va-ly, túi khoác ba-lô. Khi ngồi trên máy bay, chúng tôi nhẩm tính khá ngây thơ thời gian bay thẳng đến Thủ đô của Việt Nam. Nhưng đâu có được như vậy! Sau này, khi xem lại đường bay trên bản đồ, đến chúng tôi cũng phải ngạc nhiên vì những cung “đường vòng”, chính xác hơn là dích dắc, để đưa chúng tôi tới đích theo lộ trình: Mát-xcơ-va – Ta-xken (U-dơ-bê-ki-xtan), Bom-bay - Can-cút-ta (Ấn Độ) - Răng-gun (Mi-an-ma) - Viêng Chăn (Lào) - Hà Nội.
Có một cuộc gặp bất ngờ và thú vị diễn ra trên chuyến bay từ Răng-gun tới Viêng Chăn. Chúng tôi thấy, “phía bên kia” cũng tương tự! Những người cùng trên chuyến bay với chúng tôi là các đối thủ tiềm năng – các phi công quân sự Mỹ. Họ tự phụ bĩu môi nhìn nhóm “các chuyên gia” cùng kiểu tóc được “cắt ngắn theo điều lệnh”, trong cùng một kiểu trang phục “dân sự”, như thể được lấy ra từ một kho căng-tin quân nhu nào đó. Chúng tôi nghe và hiểu rất ít các từ “lóng” tiếng Anh - Mỹ của các quân nhân “phía bên kia”. Lúc chia tay thì lại “khá cởi mở”, khi ở Sân bay Viêng Chăn (Lào), trước khi chuyển sang chuyến bay đi Sài Gòn, các phi công Mỹ nói bằng tiếng Nga chắp vá, hẹn sẽ gặp lại chúng tôi ở Việt Nam!
Lần đầu tiên, chúng tôi gặp các bạn Việt Nam ở Hà Nội. Những con người chân thành luôn đón chào khách với nụ cười, nhưng có quyết tâm sắt đá bên trong! Sau này, nhiều lần chúng tôi còn phải ngạc nhiên về điều này, khi chứng kiến họ trong công việc, trong học tập, huấn luyện và chiến đấu. Các chuyên gia quân sự chúng tôi được các bạn Việt Nam thân tình gọi là “Liên Xô”.
 |
Giảng viên La-gu-tin (hàng đứng, thứ ba, từ phải sang) cùng các chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam năm 1972. Ảnh từ Báo Quân đội Bê-la-rút. |
Chúng tôi luôn ngập đầu với công việc trong suốt thời gian công tác ở Việt Nam. Từ cuối tháng 10 đến giữa tháng 11-1972, chúng tôi ở Hà Nội, trong địa phận Đại sứ quán Liên Xô và vắt óc suy nghĩ: Làm thế nào khi không có các tài liệu kỹ thuật để tham khảo (loại có dấu “Mật” chúng tôi không được mang ra nước ngoài), mà có thể soạn ra các giáo trình giảng dạy về các thiết bị phức tạp của tổ hợp tên lửa phòng không? Mỗi người trong nhóm được giao chuẩn bị một, hoặc hai môn chuyên ngành. Guồng máy vận hành hết sức khẩn trương và tôi vùi đầu với một môn học không hề đơn giản về hệ thống xác định tọa độ mục tiêu và tên lửa, được lấy ra không phải từ giáo trình mà từ “trong đầu”, khi nhớ lại các bài giảng của mình trước đây tại các trường quân sự, cũng như từ kinh nghiệm thu được trong thời gian làm việc tại các trường bắn thử nghiệm quốc gia.
Trong thời gian chờ Bộ tư lệnh PK-KQ Việt Nam và Trưởng đoàn chuyên gia quân sự Liên Xô phê duyệt chương trình đào tạo kíp trắc thủ chiến đấu-kết quả công tác của nhóm, chúng tôi rất hồi hộp, lo lắng. Nhưng cuối cùng, chúng tôi thở phào nhẹ nhõm khi được cấp trên đồng ý phê duyệt, đúng lúc tôi đang trên đường từ Hà Nội đến Sơn Tây, một thị xã cách Thủ đô chừng 30 cây số, ở đó có Trung tâm huấn luyện các kíp trắc thủ tên lửa chiến đấu, sử dụng tên lửa phòng không C-75, cũng là nơi chúng tôi làm việc trong suốt đợt công tác tại Việt Nam.
Trưa 16-11-1972, chúng tôi đến Sơn Tây, một địa điểm rất đẹp, nhìn rõ các ngọn núi từ xa, mái nhà tranh ven các bờ ao, xung quanh là những hàng cây bạch đàn, phía trước có hai khẩu đội phòng không và ngay sát nhà là các hầm tránh bom. Mỗi chuyên gia trong nhóm được xếp ở một phòng riêng trong nhà tranh mái lá với các cửa sổ chấn song không kính, nền nhà bằng xi măng hoặc đất nện, tường bằng tre, mái nhà lợp lá mía hoặc lá cọ. Chiếc tủ nhỏ và giường gỗ lúc này được coi như hàng “xa xỉ”, mắc sẵn màn chống muỗi. Chúng tôi hài lòng với tất cả những bố trí đó.
Theo chương trình huấn luyện đã phê duyệt, chúng tôi có nhiệm vụ sau khoảng 6 tháng phải đào tạo các quân nhân Việt Nam bình thường, trở thành các “chuyên gia” có khả năng tác chiến sử dụng tổ hợp tên lửa phòng không phức tạp C-75. Chúng tôi còn phải “truyền” niềm tin vững chắc rằng, nếu sử dụng và phát huy hết đặc tính kỹ, chiến thuật thì tổ hợp này sẽ tiêu diệt với xác suất cao mọi mục tiêu bay có trong trang bị của đối phương, dù mục tiêu có thể bay vào hoặc bay ra trên mọi tầm cao, với tốc độ thay đổi, sử dụng các loại nhiễu khác nhau...
 |
Một trận địa tên lửa của bộ đội phòng không Việt Nam sẵn sàng đánh trả máy bay Mỹ. Ảnh từ Báo Quân đội Bê-la-rút. |
Chúng tôi làm việc qua phiên dịch và như vậy sẽ phụ thuộc nhiều vào sự hiểu biết và chất lượng dịch của phiên dịch viên. Cho đến bây giờ, tôi vẫn biết ơn và luôn nhớ về người thanh niên nhân hậu, dáng người cao dong dỏng, tên là Tạ. Tôi có cảm giác, Tạ đọc được suy nghĩ của tôi. Sau mỗi cặp giờ giảng, “theo tiêu chuẩn”, các chuyên gia Liên Xô được nhận hai chai bia Tiệp (loại 0,3 lít). Cũng theo “luật Xô-viết bất thành văn”, chúng tôi luôn dành một phần bia này cho các phiên dịch cùng làm việc, riêng tôi, với tình cảm anh em, luôn chia đôi phần bia này với Tạ, người phiên dịch rất giỏi.
Các học viên của chúng tôi luôn là những học trò xuất sắc, rất có năng lực hơn cả sự mong đợi. Càng về sau, chúng tôi càng thấm thía và lý giải sự thành công này bắt nguồn từ cương lĩnh phát triển giáo dục nhân dân, luôn được sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước Cách mạng Tháng Tám-1945, hơn 95% dân số Việt Nam mù chữ. Ngay sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân triển khai một chiến dịch rộng lớn chống nạn mù chữ. Kể từ đó, sự phát triển của giáo dục toàn dân đạt kết quả chưa từng có. Trên khắp đất nước người ta tổ chức các lớp học ban ngày, ban đêm, vừa học, vừa lao động sản xuất. Nhà trường đóng vai trò nổi bật trong việc giáo dục nhiều thế hệ công dân tinh thần yêu nước nồng nàn. Tuổi tác, công việc nặng nhọc, nghèo đói, chiến tranh, bom đạn-không có gì có thể ngăn cản người Việt Nam học tập! Không có bàn ghế, thì ngồi học ngay trên sàn nhà. Trường học bị bom tàn phá, thì mở các lớp học trong những túp lều tạm, trong chùa; thiếu bảng đen thì viết ngay lên cánh cửa! Chiến đấu, lao động cho đến khi mặt trời lặn, buổi tối họ vẫn đến lớp học!
Trích nhật ký của V. M. La-gu-tin:
- "Ngày 18-12-1972. Thứ hai. Hoàn thành việc kiểm tra tổng hợp qua bài học thực hành. Cho một điểm 4 và ba điểm 5 (điểm của Liên Xô tính theo thang điểm 5). Giờ nghỉ, chơi bóng chuyền. Các buổi học đạt kết quả rất tốt. Mình đã viết thiếp chúc mừng, ngày mai thiếp sẽ được chuyển qua Hà Nội. Lại một cuộc không kích. Lúc 19 giờ 30 phút, xuất hiện hàng đoàn máy bay. Vậy là sẽ không thể chuyển các thiệp chúc mừng năm mới và các bức thư đã viết cho những người bạn, người quen và người thân của mình. Lúc này, ít người biết rằng, đây là sự khởi đầu của chiến dịch không kích tàn bạo nhất của Mỹ chống lại nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, dưới cái tên "Lai-nơ-bếch-cơ 2". Các sự kiện trong những ngày này đã làm rung chuyển cả thế giới".
V. M. La-gu-tin kể tiếp: "Lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy bầu trời chiến tranh, như có các ngọn lửa chuyển động. Cảnh tượng thật kinh hoàng! Các máy bay ném bom chiến lược B-52 mang đầy bom đạn giết người ném xuống Hà Nội. Không trung như lèn đầy các tiếng gầm quái vật. Tiếng kẻng phát ra từ các đoạn ray đường sắt, từ những vỏ bom không nổ, được đánh liên hồi để báo động về cuộc không kích. Lúc này, theo quy định nghiêm ngặt, chúng tôi đều xuống trú trong các hầm tránh bom. Lát sau, không chỉ là không trung, mà cả mặt đất cũng rung chuyển, chao đảo. Với cảm giác khủng khiếp, chúng tôi hiểu rằng, bom Mỹ đang rải thảm xuống Thủ đô của Việt Nam, nơi mà cách đây một tháng, chúng tôi đã ở đó để soạn bài, chuẩn bị kế hoạch giảng dạy. Rõ ràng, Bộ tham mưu quân đội Mỹ đã lập các kế hoạch xấu xa cho trận chiến hủy diệt này.
Sau đợt không kích đầu tiên, khi chúng tôi và cả những người Việt Nam bình thường chưa kịp định thần, thì tiếp đến đợt không kích thứ hai, rồi thứ ba. Ném bom tàn bạo và vô vọng bằng hàng trăm máy bay B-52. Từ ngày 18 đến 29-12-1972, theo lệnh từ nhà cầm quyền Oa-sinh-tơn, hàng đoàn máy bay gồm hơn 140 máy bay ném bom chiến lược B-52 và 700 máy bay chiến thuật ném khoảng 100.000 tấn bom chết người xuống Hà Nội, Hải Phòng và các khu vực đông dân cư của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Tổng thống Mỹ Ních-xơn hy vọng, việc sử dụng con át chủ bài chiến lược cuối cùng này, với "bom rải thảm" của máy bay ném bom chiến lược B-52, sẽ buộc Chính phủ và nhân dân Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện hòa bình không công bằng, mà người Mỹ đã cố gắng áp đặt suốt 1/4 thế kỷ.
Tuy nhiên, tôi nghĩ, Hoa Kỳ đã đánh giá thấp khả năng phòng không của Việt Nam; tình báo Mỹ đã sai trong dự tính số lượng khá dồi dào các tên lửa SAM, ký hiệu C-75 mà chúng tôi bí mật cung cấp trước chiến dịch. Mỗi khi B-52 xuất hiện trong vùng tiêu diệt, bộ đội Việt Nam có thể bắn với cơ số tối đa là ba quả tên lửa. Bầu trời đêm trông thật ngoạn mục. Khi tên lửa bắn trúng “siêu pháo đài bay”, trên bầu trời như bung ra hàng trăm ngọn đuốc rực sáng!
Trích nhật ký của V. M. La-gu-tin:
- "Ngày 19-12-1972. Thứ ba. Các cuộc không kích tiếp tục. Hôm qua, báo động lúc 19 giờ 30 phút, cuộc chiến đầu tiên diễn ra rất gần với nơi chúng tôi. Các súng phòng không, pháo, tên lửa đồng loạt đánh trả. Trong đêm, 7 lần tôi phải xuống hầm trú ẩn. Mỹ ném bom Hà Nội; chưa từng có trận bom nào lớn như vậy. B-52 tham chiến. Lần cuối cùng (từ 4 đến 5 giờ sáng), chúng ném rất nhiều bom nổ chậm. 3 máy bay bị bắn rơi ngay trong đợt không kích đầu tiên. Sau đó, các đài phát thanh rơi vào im lặng. Các tiết học ngày 19-12 bị chậm 10 phút. Trong ba giờ đầu tiên, hai lần thầy và trò phải ngồi trong hầm trú ẩn. Hôm qua, 3 chiếc B-52 bị bắn rơi và lần đầu tiên các phi công bị bắt ngay trong ngày đầu tập kích”.
- “Ngày 20-12-1972. Hà Nội. Ngày thứ ba bom đạn khốc liệt ở Thủ đô được thực hiện theo lệnh của Nhà Trắng. Đêm đó báo động phòng không kéo dài, liên tục hơn bốn giờ liền. Chưa có trận đánh bom nào kéo dài như vậy tại Thủ đô của Việt Nam so với các cuộc tấn công đường không trước đó của Mỹ. Chỉ riêng trong ba ngày đó, đã hình thành một “thời gian biểu tội phạm chiến tranh” hiếm thấy của bọn xâm lược. Các cuộc ném bom chiều bắt đầu khoảng 19 giờ 30 phút và kéo dài suốt đêm. Sự man rợ của các “con thú bay” chỉ chấm dứt vào lúc bình minh, khoảng 5-6 giờ sáng. Tiếp theo, từ trưa sẽ là các cuộc không kích ban ngày của máy bay chiến thuật và đến chiều, tất cả lại được lặp lại…
Các cuộc tấn công với cường độ chưa từng có đánh vào Hà Nội. Lần đầu tiên, các cuộc tấn công này có sự tham gia của máy bay ném bom chiến lược hạng nặng B-52 vào ban đêm. Rõ ràng, kẻ thù xâm lược có hai mục tiêu chính. Thứ nhất, để “nhuộm máu” trên những đống gạch đổ vỡ của thành phố; thứ hai, để kiểm tra những điểm yếu của hệ thống phòng không Bắc Việt Nam. Nhưng kẻ thù khát máu đã không thể đạt được bất cứ mục tiêu nào. Vào đêm 19 và 20 tháng Chạp, không quân Mỹ đã phải chịu các tổn thất lớn. Bầu trời Hà Nội lại thành điểm kết thúc của hai “siêu pháo đài bay” và TP Hải Phòng cũng bắn rơi bốn máy bay phản lực chiến thuật của Mỹ. Đến ngày 20-12, tổng số máy bay Mỹ bị bắn rơi tại Việt Nam trong cuộc chiến tranh này đã là 4.091 chiếc!”.
Các ngày tiếp theo, không quân Mỹ phải gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề hơn. Chỉ trong 12 ngày của cuộc đối đầu quyết định, 12 ngày đã đi vào lịch sử thế giới, không quân Mỹ bị bắn rơi 34 "siêu pháo đài bay" B-52, 5 máy bay phản lực F-111 cánh cụp cánh xòe và hàng chục máy bay chiến thuật. Hàng trăm phi công Mỹ, những “át chủ bài đầy kinh nghiệm” phải bỏ mạng hoặc bị bắt làm tù binh. Chưa bao giờ không quân chiến lược và không quân chiến thuật Mỹ lại phải chịu một tổn thất quá nặng nề trong một thời gian ngắn như vậy! Lúc này, tôi bỗng nhớ lại vẻ mặt tự phụ vào sức mạnh (không phải sức mạnh của tính đúng đắn chính nghĩa) của các phi công của quân đội Mỹ khi họ gặp chúng tôi trong chuyến bay trên đường sang Lào… Nhân dân và lực lượng vũ trang Việt Nam đã chiến thắng vinh quang vào năm 1972, đã trụ vững trong cuộc chiến đẫm máu, đã làm thay đổi hoàn toàn tình hình quân sự và bảo đảm cho đất nước non trẻ, còn nhiều khó khăn này những vị thế chiến lược mới vững vàng.
 |
Đại tá La-gu-tin (bên phải) và Đại tá Mác-cốp vui mừng gặp lại các học trò khi trở lại thăm Việt Nam. Ảnh: Hà Anh. |
Ngày 1-1-1973. Thứ hai. Hôm qua, Ních-xơn đã ra lệnh chấm dứt ném bom. Lần đầu tiên kể từ ngày 18-12, có thể cởi quần áo và lên giường đi ngủ. Lần đầu tiên không cần vào hầm tránh bom. Gặp nhau ai cũng chúc mừng. Mỗi chúng tôi đều nhận được lời chúc mừng từ Chủ tịch nước Việt Nam, từ Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân và từ Hội hữu nghị Việt - Xô. Hôm nay, chúng tôi đi dạo xung quanh hồ. Có phải tất cả đã trở lại vòng quay bình thường? Buổi chiều Việt Nam, hoàng hôn phủ bóng trên ngọn các cây cọ, trên mặt hồ xanh lục, trên các đường phố và quảng trường của Thủ đô Việt Nam. Hà Nội vẫn với không khí khá căng thẳng vào lúc này. Ở đây, mọi người biết rằng, kẻ thù bất cứ lúc nào cũng có thể đột nhập vùng trời thành phố. Không ai tin ngay rằng, chiến tranh đã kết thúc. Thành phố vẫn sẵn sàng cho mọi tình huống, kể cả phải chiến đấu trở lại".
Nhóm các chuyên gia quân sự Liên Xô chúng tôi đã hoàn thành toàn bộ chương trình huấn luyện được phê duyệt trước đó cho các kíp trắc thủ tên lửa chiến đấu của Việt Nam, khi xung quanh không còn tiếng bom nổ và đất nước từng bước phục hồi từ những đống tro tàn và đổ nát...
Kết thúc loạt bài viết “12 ngày đối đầu”, tác giả, Đại tá Xéc-gây Rô-xin-xki viết: Nhiều năm qua, Tiến sĩ, PGS, Đại tá V. M. La-gu-tin vẫn tham gia giảng dạy, nghiên cứu và một số nhiệm vụ khác trong lĩnh vực quốc phòng, với nhiệt huyết từ trái tim mình. Ông thường nhắc lại: "Thật đẹp làm sao, khi được học tập, làm việc, được sống trong hòa bình và trân trọng mỗi phút của cuộc sống". Mặc dù đã cao tuổi, ông vẫn tham gia giảng dạy tại Bộ môn Chiến thuật và trang bị, thuộc Khoa Phòng không (Học viện Quốc phòng Cộng hòa Bê-la-rút). Ông sẵn sàng tham gia các cuộc hội thảo và hội nghị kỹ thuật trong và ngoài học viện với các báo cáo thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học mái đầu đã bạc, cho đến các học viên trẻ năm thứ nhất. Nhân kỷ niệm 40 năm Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, V. M. La-gu-tin cùng các cựu chuyên gia quân sự từng sang giúp đỡ và chiến đấu tại Việt Nam, như GS, TS khoa học, Đại tá Lép Mác-cốp; PGS, TS Ge-na-di Kô-nhép… và nhiều chuyên gia khác, từ Bê-la-rút, Liên bang Nga, U-crai-na được mời sang thăm Việt Nam. Các cựu chuyên gia quân sự Liên Xô luôn trân trọng, giữ gìn những ký ức tốt đẹp và tình hữu nghị nồng thắm về những năm tháng cùng chung chiến hào, sát cánh cùng nhân dân và bộ đội Việt Nam chiến đấu vì tự do và độc lập, đồng thời cảm nhận rất rõ, người Việt Nam luôn thủy chung, trân trọng, yêu quý và ghi nhớ các đồng chí Liên Xô của mình!”.
Trở về Tổ quốc năm 1973, đến nay Đại tá V. M. La-gu-tin mới có dịp trở lại Việt Nam thăm lại “chiến trường xưa” và tìm gặp những học trò Việt Nam mà ông rất quý mến. Những ngày ở Việt Nam, các cựu chiến binh, cựu chuyên gia quân sự Xô-viết rất vui khi được đón tiếp ân tình, chu đáo, nhất là được gặp lại các đồng đội, học trò Việt Nam. Tâm sự với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, Đại tá La-gu-tin khẳng định: “Thời gian qua nhanh, nhiều điều có thể dần bị lãng quên, nhưng 40 năm nhìn lại, có thể khẳng định: Tình đoàn kết, sát cánh bên nhau giữa quân đội, nhân dân hai nước Việt - Xô đã góp phần làm nên Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”.
Cựu chiến binh La-gu-tin lưu giữ và mang về nước nhiều kỷ vật trong những năm tháng ở Việt Nam, như mảnh xác máy bay Mỹ, mảnh bom, mảnh đạn, vỏ bom bi… Ông đã tặng một số hiện vật cho Phòng truyền thống Trường Thiếu sinh quân Su-vô-rốp (nơi ông học tập thời niên thiếu) và còn lập một bảo tàng nhỏ về Việt Nam tại nhà.
NGUYỄN TĂNG CƯỜNG - QUÂN THỦY (dịch và giới thiệu)