Ta cần chọn chỗ địch yếu, sơ hở đánh trước, nhằm khoét sâu nhược điểm cơ bản của địch, làm cho chúng yếu dần, ta trưởng thành từng bước, giành thắng lợi từng phần, tạo ra chuyển biến so sánh lực lượng có lợi cho ta tiến hành những chiến dịch quyết chiến chiến lược giành thắng lợi quyết định.
Trên cơ sở đánh giá tình hình, ta quyết định mở chiến dịch tiến công vào Tây Bắc, chiến trường rừng núi quan trọng duy nhất còn lại ở Bắc Bộ. Chọn hướng Tây Bắc để mở chiến dịch tiến công, Bộ Chính trị đã có sự cân nhắc đúng đắn. Ta đưa chủ lực đánh vào một chiến trường rừng núi có tầm quan trọng chiến lược, nơi địch có lực lượng phòng thủ yếu, nhưng hiểm yếu, nơi địch khó phát huy sức mạnh về pháo binh, không quân, lại là nơi phù hợp với trình độ tác chiến và sở trường của bộ đội ta.
Quân ta vượt sông Đà chọc thủng tuyến phòng ngự của địch trong chiến dịch Tây Bắc. Ảnh tư liệu
Theo tinh thần trên, thu đông năm 1952, ta tập trung phần lớn chủ lực cho chiến trường Tây Bắc: Các đại đoàn 308, 312 và 316 (thiếu), Tiểu đoàn 910 (Trung đoàn 148), 6 đại đội sơn pháo 75mm, 3 đại đội súng cối 120mm, 1 trung đoàn công binh và 11 đại đội bộ đội địa phương. Trên địa bàn chiến dịch, ta lại chia thành từng khu vực để tiến công, đồng thời tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực để thực hiện đòn tiêu diệt trên các khu vực chủ yếu. Trên khu vực tiến công chủ yếu, ta lại tập trung ưu thế áp đảo địch trong các trận đánh lớn then chốt. Ta chia thời gian chiến dịch thành từng đợt để tập trung sức mạnh, hoàn thành dứt điểm nhiệm vụ của mỗi đợt, rồi tiếp tục tập trung cho đợt sau. Trong từng đợt, ta lựa chọn thời điểm có lợi nhất, nhằm phát huy thế và lực để giành thắng lợi.
Cụ thể đợt 1, từ 14 đến 23-10, ta tiến công Phân khu Nghĩa Lộ, Tiểu khu Phù Yên, tiêu diệt và bức rút hàng loạt cứ điểm Ca Vịnh, Sài Lương, Pú Chạng, Nghĩa Lộ Phố…, đập tan toàn bộ phòng tuyến vành ngoài của địch từ hữu ngạn sông Thao đến tả ngạn sông Đà, từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai. Địch tăng viện cho Tây Bắc, dồn quân về xây dựng tập đoàn cứ điểm Nà Sản, đồng thời mở cuộc hành quân Loren đánh lên Phú Thọ, nhằm kéo chủ lực ta về đối phó nhưng thất bại. Đợt 2, từ 7 đến 22-11, ta vượt sông Đà, tiến công vào hệ thống phòng ngự của địch trên cao nguyên Mộc Châu, kết hợp vu hồi chiến dịch từ Quỳnh Nhai, giải phóng Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ, buộc địch ở thị xã Sơn La rút chạy về Nà Sản. Đợt 3, từ 30-11 đến 10-12, ta tiến công địch ở Nà Sản và chủ động kết thúc chiến dịch.
Đây là nghệ thuật tạo sức mạnh bằng cách chia địch ra trong từng khoảng không gian và từng thời gian để thắng chúng. Ta luôn tạo ưu thế, nắm quyền chủ động chiến dịch, biết lượng sức, khéo léo phát huy thế mạnh chiến lược, biết khơi sâu mâu thuẫn vốn có của địch giữa tập trung cơ động với phân tán chiếm đóng, giữa hành động quân sự với thủ đoạn chính trị. Ta đã thực hiện kìm chỗ mạnh, đánh chỗ yếu của địch. Trong các đợt đầu đã tiến công thì đánh dứt điểm, nhanh chóng dồn dịch vào thế bị động bất ngờ.
Trong chiến dịch này ta đã giành được thắng lợi to lớn về nhiều mặt. Việc đề ra mục đích tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch bao gồm cả lực lượng chủ lực tinh nhuệ và quân chiếm đóng, làm tan rã bộ máy kìm kẹp của địch với việc tranh thủ nhân dân, mở rộng vùng giải phóng đã thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa quân sự với chính trị trong chiến dịch, phù hợp với sự phát triển của chiến trường trong giai đoạn này. Nhờ chọn đúng hướng, tiến công đúng đối tượng tác chiến, có cách đánh phù hợp, ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch.
Ta đã giải phóng một vùng rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng (khoảng 30.000km2 với 250.000 dân), nối liền vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch. Từ thất bại trên địa bàn Tây Bắc, địch bị đẩy thêm một bước vào thế bị động chiến lược. Vùng giải phóng Tây Bắc nối liền với đất bạn đã mở ra cho cách mạng ba nước Đông Dương một thế trận mới ở phía Bắc.
NGUYỄN THÀNH HỮU