Để đáp ứng yêu cầu của chiến trường, năm 1974, Đoàn 559 tập trung lực lượng nâng cấp trục đường Đông Trường Sơn, tiếp tục cải tạo trục đường Tây Trường Sơn và làm tốt nhiệm vụ bảo đảm giao thông. Ở phía đông, Bộ đội Công binh tiến hành mở rộng nền đường, từ Đường 9 vào Bắc Tây Nguyên. Toàn bộ lực lượng công binh trên tuyến được tổ chức thành 4 sư đoàn: 470, 471, 472, 473 và 5 trung đoàn.

Mặc dù đã trải qua nhiều năm công tác, có kinh nghiệm mở đường quân sự dã chiến, nhưng khi chuyển sang xây dựng đường cơ bản, lực lượng công binh Đoàn 559 gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài sự thiếu thốn về phương tiện, vật liệu, một số đoạn đường phải thi công gần địch thì khó khăn lớn nổi lên lúc này là từ cách làm đường tạm với đội hình phân tán, kỹ thuật ứng dụng linh hoạt, nay phải làm đường vững chắc, theo kế hoạch dây chuyền chuyên môn hóa, chỉ huy tập trung...

Tuy nhiên, nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược của con đường, phát huy truyền thống "Mở đường thắng lợi", hàng vạn cán bộ, chiến sĩ công binh đã vượt qua khó khăn gian khổ, ngày đêm xẻ núi, bạt dốc, làm kè, lát đá, bắc cầu. Cùng với đó, Nhà nước đã huy động hàng nghìn xe máy, hàng trăm kỹ sư cầu đường và hàng nghìn thanh niên xung phong, dân công tham gia công trình xây dựng tuyến đường Đông Trường Sơn. Tính đến cuối năm 1974, trên hệ thống đường Trường Sơn, ta đã củng cố và mở rộng được 5.920km đường dọc, 3.930km đường ngang và 4.830km đường vòng tránh, bảo đảm vận chuyển cơ giới thông suốt trong mọi thời tiết.

Trung đoàn Công binh 6 (Đoàn 559) và thanh niên xung phong mở đường Trường Sơn bằng phương tiện cơ giới năm 1974. Ảnh tư liệu.

 

Với việc xây dựng cơ bản một bước trục đường Đông Trường Sơn và củng cố trục đường Tây Trường Sơn, ta đã có một hệ thống đường chiến lược Bắc-Nam, áp sát hậu phương tất cả các chiến trường. Trên hệ thống đường, có thể chạy cả hai mùa liên tục 12 tháng trong năm. Nếu như trước đây, đi bằng xe ô tô từ Bắc vào Nam phải mất 22-28 ngày thì vào thời điểm đó chỉ mất 7-10 ngày. Tuyến đường Trường Sơn có thể bảo đảm cho tất cả các loại hình binh khí kỹ thuật, như: Xe tăng, pháo lớn, xe tên lửa... bảo đảm đội hình hành quân của cả quân đoàn. Nhờ đó, kế hoạch vận chuyển dự trữ hậu cần cho các chiến trường hoàn thành trước thời hạn, góp phần quan trọng để thực hiện kế hoạch tác chiến. Đây là kết quả lao động đầy hy sinh gian khổ và bền bỉ của hàng vạn cán bộ, chiến sĩ công binh, dưới sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp rất kiên quyết và sáng tạo của Đảng ủy và Bộ tư lệnh Đoàn 559, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh.

Bằng sự dũng cảm và mưu trí, lực lượng công binh trên tuyến đường Trường Sơn góp phần to lớn thực hiện một sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam-cơ giới hóa bộ binh, tạo nên khả năng cơ động cao, sức đột kích mạnh của các binh đoàn chủ lực. Từ làm nhiệm vụ xoi mở những tuyến đường mòn để vận chuyển hàng quân sự từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam; tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ, chuyển công văn, tài liệu từ miền Bắc vào miền Nam và từ miền Nam ra Bắc bằng các phương tiện thô sơ, Bộ đội Công binh Trường Sơn đã xây dựng được hệ thống đường giao thông bảo đảm cho vận chuyển người, vũ khí trang bị, hàng hóa, kịp thời đáp ứng yêu cầu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.    

Thời gian trôi đi, đường Trường Sơn-đường Hồ Chí Minh mãi mãi đi vào lịch sử như một kỳ tích của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hào hùng của dân tộc, kỳ tích của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Chiến công của Bộ đội Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh nói chung và Bộ đội Công binh nói riêng đã đi vào lịch sử dân tộc ta như một huyền thoại về sức mạnh chiến đấu, chiến thắng giặc ngoại xâm, đồng thời cũng để lại những bài học vô giá về phát huy nhân tố chính trị-tinh thần trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Đại tá VŨ VĂN KHANH