Ngày 14-6-1961, tuyến gùi thồ ở phía Tây Trường Sơn đã chính thức đi vào hoạt động. Trong lịch sử quen gọi vắn tắt sự kiện này là “Lật cánh sang Tây Trường Sơn”.
Cuối năm 1960 và đầu năm 1961, do kẻ địch chống phá điên cuồng, tuyến chi viện cho chiến trường miền Nam do Đoàn 559 thực hiện lâm vào tình trạng bế tắc nghiêm trọng, có lúc gần như bị ngưng trệ hoàn toàn. Mùa mưa năm 1960, Đoàn 70 phải rút hầu hết lực lượng về Bắc sông Bến Hải để bảo toàn lực lượng.
Chi viện cho Cách mạng miền Nam không thể bị ngừng trệ. Đoàn 559 đã chủ động khảo sát tuyến mới sát biên giới phía Tây trên đất Việt Nam, nhưng tuyến này địa hình hiểm trở chưa thể sử dụng được.
Đầu năm 1961, Liên quân Pha Thét Lào và Việt Nam đã mở chiến dịch giải phóng khu vực rộng lớn từ Xiêng Khoảng xuống các tỉnh Khăm Muộn, Sa-va-na-khet, Tà Ven Oọc… khu vực biên giới Trung-Hạ Lào và Việt Nam đã được khai thông.
Cùng thời điểm này, theo chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Đoàn 559 đã khảo sát tuyến gùi thồ mới bắt đầu từ Vít Thù Lù (phía tây tỉnh Quảng Bình), đi ngang qua động Vàng Vàng (bản A Chốc) vượt biên giới sang Lào tại bản Ta Ha, xuôi xuống bản Tà Lăng, qua Cha Ky, vượt Đường 9 và sông Sê Pôn xuống Sa Đì, Mường Noòng và cuối cùng là La Hạp. Tuyến mới khảo sát nằm trên địa bàn Tây Trường Sơn (địa phận tỉnh Sa-va-na-khet, Lào). Sau một thời gian, việc xác định các cung, trạm trên tuyến mới đã hoàn tất. Đoàn 70 đã chuyển hầu hết lực lượng rải quân dọc tuyến mới này.
Vượt trọng điểm ở Tây Trường Sơn.
Vận chuyển hàng ra mặt trận ở Đường Tây Trường Sơn. Ảnh tư liệu
Ngày 14-6-1961, tuyến gùi thồ ở phía Tây Trường Sơn đã chính thức đi vào hoạt động. Trong lịch sử quen gọi vắn tắt sự kiện này là “Lật cánh sang Tây Trường Sơn”.
Ở phía Đông, cuối năm 1961, một số vùng phía tây Quảng Trị được giải phóng, một phần lực lượng của Đoàn 70 đã mở tuyến dọc biên giới ở Đông Trường Sơn và vươn sâu vào đến Tăng Non (tây Bến Giàng, thuộc tỉnh Quảng Nam khoảng 60km), giao hàng cho Khu 5 và Tây Nguyên. Đoàn 71 được thành lập tháng 10-1961 làm nhiệm vụ vận chuyển hàng từ Cù Bai (phía tây Vĩnh Linh) qua Chăng Hin, Cà Lư, Đăk Rông vào Tà Riệp.
Như vậy là Tuyến chi viện 559 đã hoạt động cả Đông và Tây Trường Sơn.
Được sự thống nhất của bạn Lào, sân bay Sê Pôn (tỉnh Sa-va-na-khet) năm 1961 được Sư đoàn 325 sửa chữa để tiếp nhận hàng chục tấn thiết bị, vũ khí do Trung đoàn không quân 919 chở bằng máy bay từ sân bay Đồng Hới và Vinh sang. Trong đó có thiết bị thông tin liên lạc, súng DKZ, pháo 120mm, đặc biệt là toàn bộ thiết bị lắp đặt cho Đài Phát thanh giải phóng miền Nam Việt Nam.
Từ tháng 9-1961, cùng với tuyến gùi thồ, một tuyến đường ô tô dã chiến dài 200km đã được 2 tiểu đoàn công binh của Quân khu 4 xây dựng nối Đường 12 tại Lằng Khằng với Đường 9 tại Mường Phìn, mang tên Đường 129. Đầu năm 1962, một đoàn xe 60 chiếc chở hàng theo Đường 12, vượt đèo Mụ Giạ xuống Lằng Khằng rồi theo Đường 129 giao hàng tại Sê Pôn. Đây là chuyến hàng vận chuyển bằng cơ giới quy mô đầu tiên ở Tây Trường Sơn.
Khu vực Sê Pôn, Mường Phìn đã trở thành căn cứ dự trữ chiến lược. Trong các năm tiếp theo nhiều sở chỉ huy, binh trạm và các kho hậu cần cũng đã được xây dựng ở Tây Trường Sơn.
Ngày 9-8-1964, Trung đoàn 98 đã bổ nhát cuốc đầu tiên nâng cấp đường gùi thồ từ Bản Đông đi Mường Noòng thành đường cơ giới. Tiếp theo năm 1965, Đường 128 từ Xóm Péng đến Na Bo được xây dựng; năm 1966 xây dựng tuyến vượt khẩu cơ giới thứ 2 là đường 20 Quyết Thắng từ Phong Nha (tỉnh Quảng Bình) sang Lùm Bùm (huyện Bua La Pha, tỉnh Khăm Muộn). Ở phía Nam Đường 9 các trục đường ô tô mới được xây dựng đến tận Ngã ba biên giới, nối liền với trục đường C4, C49 ở Đông-Bắc Cam-pu-chia, với các trục ngang nối Tây Trường Sơn với Trị Thiên và Tây Nguyên của Việt Nam.
Từ Đoàn công tác quân sự đặc biệt ban đầu, Đoàn 559 đã có bước trưởng thành nhanh chóng về tổ chức: Ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng đã ra Quyết định số 96/QP, nâng Đoàn 559 lên tương đương cấp sư đoàn. Ngày 3-4-1965, Thường trực Quân ủy Trung ương đã ra Nghị quyết số 54/QU-TƯ: Bộ tư lệnh 559 và Đảng ủy 559 tương đương cấp quân khu; quyết định Tuyến chi viện chiến lược 559 chính thức vận chuyển chủ yếu bằng cơ giới. Có thể nói, đây là một quyết định lịch sử tạo nên bước ngoặt để Bộ Tư lệnh 559-Bộ đội Trường Sơn viết nên lịch sử huyền thoại của hệ thống đường Trường Sơn. Và ngày 29-7-1970, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng Quyết định đổi tên Bộ tư lệnh 559 thành Bộ tư lệnh Trường Sơn-tương đương cấp quân khu; giao Bộ tư lệnh Trường Sơn chỉ huy toàn bộ lực lượng của ta hoạt động trên địa bàn Nam Lào. Trường Sơn chính thức trở thành một chiến trường.
Lúc này, thế trận cầu đường của Đoàn 559 ở Tây Trường Sơn đã phát triển rộng khắp, tạo ra một mạng đường liên hoàn ngang dọc khắp 7 tỉnh Trung-Hạ Lào và 3 tỉnh Đông Bắc Cam-pu-chia. Những đoàn xe, đoàn người như mạch máu không ngừng nghỉ ngày đêm chảy ra tiền tuyến, tiếp sức cho Cách mạng miền Nam Việt Nam, Cách mạng Lào, Cách mạng của Cam-pu-chia.
Với phương châm chiến lược: “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, Bộ đội Trường Sơn luôn luôn xác định nhiệm vụ giúp Bạn cũng quan trọng như nhiệm vụ chi viện chiến lược cho các hướng chiến trường. Bởi vì, địa bàn đứng chân có vững chắc thì mới phát triển được lực lượng và thế trận trên Trường Sơn. Các đơn vị của Bộ tư lệnh 559 luôn sát cánh cùng các đơn vị Pha Thét Lào chiến đấu để bảo vệ tuyến chi viện, bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ cơ sở cách mạng Lào.
Các đơn vị từ cấp tiểu đoàn của Bộ đội Trường Sơn đều có lực lượng dân vận chuyên trách, cùng ăn, cùng ở giúp đỡ đồng bào và chính quyền địa phương từng bản làng. Về lực lượng chuyên trách, Bộ tư lệnh Trường Sơn có Cục chuyên gia (Ban C) trực tiếp chỉ đạo, tổ chức các lực lượng giúp bạn trên toàn chiến trường Trường Sơn. Lực lượng tác chiến trực tiếp của Bộ đội Trường Sơn có Sư đoàn bộ binh 968 quân tình nguyện và Đoàn chuyên gia quân sự 565 (tương đương cấp sư đoàn) trực tiếp giúp đỡ xây dựng lực lượng vũ trang và chính quyền các cấp của các địa phương Trung-Hạ Lào. Có thể nói suốt thời kỳ chiến đấu chống Mỹ, 600 bản thuộc 18 huyện của 4 tỉnh Trung-Hạ Lào trong địa bàn hoạt động của Bộ đội Trường Sơn đều có lực lượng bộ đội Trường Sơn giúp đỡ trực tiếp toàn diện tại mỗi bản làng.
Nhân dân địa phương các bộ tộc Lào đã tạo mọi điều kiện cho Bộ đội Việt Nam. Hàng trăm bản làng của đồng bào Lào đã tự nguyện rời bỏ nhà cửa, nương rẫy từ bao đời nay để cho tuyến đường Trường Sơn bảo đảm yêu cầu “gần nhất, dễ đi nhất”. Những bản làng nằm gần những con đường Trường Sơn mới mở cũng phải rời sâu vào rừng để tránh bom đạn Mỹ đánh phá ác liệt suốt ngày đêm. Sự hy sinh to lớn ấy của đồng bào các bộ tộc Lào không gì có thể so sánh được.
Những người lính Trường Sơn vẫn còn nhớ: Cuối năm 1964, do tuyến vận tải bị tắc, mấy nghìn cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 70 bị thiếu đói nghiêm trọng. Trước tình hình “nước sôi, lửa bỏng” ấy, nhân dân các huyện Cà Lươn, Sê Ca Mán… tỉnh Tà Ven Oọc, đã vận động nhân dân thu gom được trên 30 tấn thóc gạo, cứu đói cho Bộ đội Việt Nam. Trung đoàn 70 sau đó đã cử cán bộ đến từng bản làng bày tỏ lòng cảm ơn nghĩa tình “một miếng khi đói” của nhân dân các bộ tộc Lào.
Ngày 5-8-1964, máy bay Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc Việt Nam. Cũng từ thời điểm đó, tuyến đường Hồ Chí Minh Tây Trường Sơn cũng bị đánh phá ngày một thêm ác liệt.
Suốt 10 năm (1964-1973), hơn bốn triệu tấn bom đã ném xuống Trường Sơn. Kẻ địch muốn bằng sức mạnh hủy diệt của bom đạn, chất độc hóa học để cắt đứt đường Hồ Chí Minh, bắt hai dân tộc Lào-Việt phải khuất phục. Hàng vạn chiến sĩ Trường Sơn và quân dân các bộ tộc Lào đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến đấu này. Nhưng Đường Trường Sơn vẫn rộng dài vươn ra phía trước, tình đoàn kết máu thịt Việt-Lào đã được hun đúc ngày thêm bền chặt.
Ở Tây Trường Sơn không chỉ có các tuyến đường vận tải đường bộ mà còn có các tuyến vận tải đường sông, đường dây thông tin, đường giao liên… Tuyến đường ống xăng dầu đầu tiên của Trường Sơn đã vượt đèo Mụ Giạ vào đến Ka Vát (Khăm Muộn) năm 1969. Đặc biệt nhánh Tây Đường ống xăng dầu theo Đường 16 vào Bản Đông chạy dọc theo đường 128 trên đất Lào để vào Việt Nam nhập với nhánh Đông tại khu vực Ngã ba Biên giới.
Hệ thống Đường Trường Sơn là một “Công trình kỳ vĩ” với 5 trục dọc, 21 trục ngang, tổng chiều dài gần 20.000km, trong đó 4 trục dọc nằm trên đất Lào, hầu hết các trục ngang hoặc toàn bộ hoặc một phần nằm trên đất Lào.
Sự kiện Bộ đội Trường Sơn bắt đầu hoạt động trên địa bàn Tây Trường Sơn ngày14-9-1961 là một bước chuyển hướng chiến lược. Từ một địa bàn chật hẹp với phương thức gùi thồ là chính chuyển sang một địa bàn rộng lớn, có điều kiện vận chuyển cơ giới với quy mô ngày càng lớn, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng hai nước Việt Nam và Lào.
Ngày nay, di tích Đường Trường Sơn trên địa bàn 11 tỉnh Việt Nam đã xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt. Đó là sự ghi nhận xứng đáng của Đảng và Nhà nước cho những đóng góp của Bộ đội Trường Sơn.
Di tích Đường Hồ Chí Minh ở Tây Trường Sơn đã được Đảng, Nhà nước và Nhân dân Lào bảo tồn nguyên vẹn trên 1km đường ở Mường Noòng; Cầu treo Bản Đông do Bộ đội Trường Sơn xây dựng hiện vẫn đang được bạn sử dụng, hai kho xăng dầu của Bộ đội Trường Sơn trong hang đá vẫn còn nguyên vẹn, một Bia tưởng niệm các liệt sĩ Lào-Việt trên Đường 12, tỉnh Sa-va-na-khet, Lào vẫn được bạn bảo tồn nguyên trạng.
Nhân kỷ niệm 56 năm Ngày Bộ đội Trường Sơn lật cánh sang Tây Trường Sơn, nguyện vọng của cán bộ, hội viên Hội truyền thống Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh Việt Nam mong muốn sớm được Nhà nước Lào công nhận Di tích Đường Hồ Chí Minh Tây Trường Sơn là Di tích Quốc gia Lào.
Sự kiện ngày 14-6-1961 là một trong những mốc son, là bước ngoặt lịch sử hào hùng của Bộ đội Trường Sơn, của tình hữu nghị chiến đấu keo sơn Việt-Lào trên Trường Sơn vĩ đại của hai dân tộc.
Thiếu tướng VÕ SỞ, Chủ tịch Hội Truyền thống Trường Sơn-Đường Hồ Chí Minh Việt Nam