Hải quân Nga liên tục nghiên cứu, phát triển các thế hệ tàu ngầm mới, trong đó có việc nâng cấp, đóng mới tàu ngầm tiến công lớp Kilo-636 đạt tiêu chuẩn tàu ngầm đi-ê-den điện thế hệ mới (được coi là thế hệ thứ 4+). Tàu ngầm Kilo-636 được các nước phương Tây mệnh danh là “Kẻ sát thủ vô hình” hoặc “Lỗ đen”, bởi tính năng chiến đấu vượt trội so với các tàu ngầm đi-ê-den-điện cùng loại và ít phát sinh tiếng ồn, bảo đảm tính bất ngờ trong tác chiến rất cao. Tàu ngầm Kilo-636 nhằm để tiến công, tiêu diệt các tàu ngầm và tàu mặt nước, đồng thời chúng còn được dùng để trinh sát và tuần tiễu. Đặc biệt, tàu ngầm Kilo-636 có thể phát hiện tàu ngầm của đối phương ở khoảng cách xa gấp 3 đến 4 lần và là biến thể hiện đại nhất của tàu ngầm tiến công lớp Kilo được đưa vào trang bị cho hải quân Xô-viết vào năm 1982.

Mô hình tàu Kilo-636.

Tàu ngầm chiến đấu lớp Kilo đầu tiên mang mật danh “Dự án 877 Paltus” do Cục Thiết kế hải quân Ru-bin thiết kế. Thời gian đầu, tàu ngầm lớp Kilo được đóng tại Nhà máy đóng tàu Côm-xô-môn-xcơ. Sau này, trong quá trình nâng cấp, cải tiến và phát triển mới, tàu ngầm Kilo hiện nay chủ yếu được đóng tại Nhà máy A-dơ-mi-ran-ti ở thành phố Xanh Pê-téc-bua. Sau gần 30 năm chính thức đi vào hoạt động, tàu ngầm lớp Kilo đã phát triển với rất nhiều biến thể nhằm bảo đảm phù hợp với điều kiện tác chiến mới của hải quân Nga và theo yêu cầu của hải quân các nước đặt mua. Tùy vào tính năng nâng cấp, tàu ngầm tiến công Kilo hiện nay được chia làm hai loại chính là kiểu 877EKM và kiểu 636. Thiết kế của tầu ngầm Kilo-636 có nhiều điểm khác biệt với Kilo-877EKM. Cụ thể, tàu ngầm Kilo-636 có thân rộng hơn, động cơ công suất lớn hơn, tốc độ cơ động cao hơn. Tàu chạy êm, tiếng ồn nhỏ, giảm khả năng bị phát hiện của các phương tiện trinh sát của đối phương. Tàu ngầm Kilo-636 có khả năng lặn đến độ sâu tối đa 300m, đạt tốc độ lớn nhất 20,3km/h khi nổi và 37 km/h khi lặn; tầm hoạt động đạt tới 12.000km khi chạy với tốc độ 13km/h trên biển hay 640km khi lặn sâu với tốc độ 5,5km/h. Tàu ngầm Kilo-636 được trang bị hệ thống kiểm soát và chỉ huy đa nhiệm rất hiện đại với hệ thống máy tính tốc độ cao có khả năng xử lý các thông tin và hiển thị hình ảnh, có khả năng ngay lập tức đưa ra các thông số như phần tử bắn, kiểm soát vũ khí cùng các hướng dẫn về điều khiển khác.

Tàu ngầm Kilo-636 thiết kế theo 6 khoang kín nước, các khoang ngăn cách với nhau bằng các vách ngăn nằm ngang trong một thân tàu hai lớp. Với thiết kế ưu việt kết hợp với độ nổi tốt cho phép tăng khả năng sống sót của tàu lên nhiều. Đặc biệt, tàu có khả năng hoạt động bình thường khi bị bắn thủng một khoang và hai ngăn liền kề bị ngập nước. Tàu dài 72,6m, đường kính 9,9m, lượng giãn nước 2.350 tấn, thủy thủ đoàn 57 người. Lượng dự trữ nhiên liệu đủ cho tàu hoạt động liên tục 45 ngày trên biển. Tàu ngầm tiến công Kilo-636 ứng dụng hệ thống đẩy khí độc lập mới nhất do Cục Thiết kế Ru-bin phát triển, nhằm tăng khả năng hoạt động của tàu. Hệ thống đẩy của tàu bao gồm hai máy phát điện đi-ê-den, công suất mỗi máy 5.900 mã lực, một động cơ đẩy chính, một động cơ tiết kiệm nhiên liệu, một bánh lái một trục và một chân vịt có 7 cánh cố định. Tàu còn có hai động cơ dự trữ để chạy trong vùng nước nông và khi neo; đồng thời có hai bộ nguồn, mỗi bộ 120 pin dự trữ đặt trong ngăn thứ nhất và thứ ba của tàu ngầm, để cung cấp năng lượng cho tàu khởi động và sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.

Vũ khí chính trang bị trên tàu gồm: Tên lửa hành trình Novator Club-S (Khối NATO ký hiệu là SS-N-27 Sizzler) mang đầu đạn nổ phá năng lượng cao 3M-54E1, nặng 450kg, dùng để tiêu diệt tàu chiến ở cự ly 220km. Một giàn phóng gồm 6 ống phóng ngư lôi 533mm ở phía trước mũi tàu và mang theo 18 ngư lôi, bao gồm 6 quả trong ống phóng và 12 quả ở cơ cấu nạp. Tàu còn có 24 thiết bị rải thủy lôi, mỗi lần rải 24 quả, bảo đảm cho tác chiến phong tỏa đường biển. Ngư lôi được điều khiển từ xa bằng máy tính, có xác suất bắn trúng mục tiêu rất cao. Với hệ thống kiểm soát bắn hiện đại, chỉ trong vòng 2 phút, tàu có thể phóng lượt thứ nhất và sau 5 phút có thể phóng lượt ngư lôi thứ hai. Trên tàu còn trang bị bệ phóng tên lửa phòng không với 8 tên lửa Strela-3 hoặc Igla do Cục Thiết kế Pha-ken phát triển. Tên lửa Strela-3 (Khối NATO gọi là SA-N-8 Gremlin) sử dụng đầu dò tìm hồng ngoại, làm lạnh bằng ni-tơ lỏng, tầm bắn xa nhất là 6km, đầu đạn nặng 2kg. Tên lửa Igla (Khối NATO gọi là SA-N-10 Gimlet) cũng sử dụng đầu tìm hồng ngoại, nặng hơn Strela-3, có khả năng tấn công mục tiêu bay ở khoảng cách 5km với tốc độ tối đa 1,65M (trên tốc độ âm thanh).

Cùng với vũ khí hiện đại, tàu ngầm Kilo-636 được trang bị các hệ thống kiểm soát và điều khiển bắn tiên tiến, tự động. Tàu còn trang bị thiết bị cảm biến MGK-400EM kỹ thuật số, bảo đảm khả năng phát hiện được các sóng âm mà tàu nổi cũng như các loại tàu ngầm khác phát ra từ khoảng cách rất xa. Ngoài ra, tàu còn trang bị khí tài tác chiến điện tử (ESM), thiết bị cảnh báo ra-đa và các thiết bị định vị, dẫn đường. Các khí tài hiện đại cho phép tàu triển khai chiến đấu nhanh, tính toán phần tử bắn chính xác và bảo đảm an toàn cho tàu khi cơ động cũng như trong chiến đấu./.

Giang Hồng Cương