Sau trận Trân Châu Cảng (năm 1941), Mỹ thấy rõ hơn vai trò của các hạm đội với nòng cốt là tàu sân bay. Mỹ đã xây dựng nhiều hạm đội tàu sân bay hoạt động trên khắp các đại dương.

Sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Liên Xô (cũ) do những hạn chế về công nghệ, tài chính đã không thể xây dựng các hạm đội tàu sân bay tương tự. Với chiến lược chiến tranh bất đối xứng, Liên Xô đã tập trung phát triển các thế hệ tên lửa đối hạm siêu thanh tầm xa có khả năng mang đầu đạn hạt nhân bảo đảm khả năng tiêu diệt các hạm đội tàu sân bay của đối phương.

Tàu sân bay của Mỹ thực chất là căn cứ nổi trên biển với khả năng phòng thủ hạn chế. Bù lại, chúng mang nhiều máy bay hơn. Ngoài ra, động cơ sử dụng nhiên liệu hạt nhân giúp tầm hoạt động của tàu sân bay không giới hạn và cơ cấu máy phóng hơi nước giúp máy bay cất cánh là đặc trưng cơ bản của các tàu sân bay Mỹ.

Trong khi đó, Hải quân Nga lại sử dụng các hạm đội xoay quanh các tuần dương hạm hạng nặng mang tên lửa làm đối trọng với tàu sân bay của Mỹ. Việc trang bị các tàu sân bay đơn thuần cũng là hình thức bổ sung chức năng cho các tàu tuần dương loại này. Điển hình là việc các tàu sân bay lớp Varyag của Nga tuy có trọng tải nhỏ hơn, mang máy bay ít hơn, nhưng lại được vũ trang tương đương với các tàu tuần dương với các tổ hợp tên lửa đối hạm siêu thanh, tổ hợp pháo-tên lửa phòng không tầm ngắn để nâng cao khả năng sống sót và tiêu diệt đối phương. Ngoài ra, động cơ tua-bin đa nhiên liệu và cơ cấu dốc phóng giúp máy bay cất cánh đặc trưng của các tàu sân bay Nga.

Các máy bay mang trên tàu sân bay Nga chủ yếu đảm nhiệm khả năng phòng không, săn ngầm. Khả năng tác chiến đối hải, cường kích hạn chế do số lượng máy bay ít và phương thức cất cánh không cho phép máy bay mang nhiều vũ khí.

Ngày nay việc xảy ra đụng độ quy mô lớn giữa Hải quân Nga và Mỹ khó xảy ra. Vì thế, khả năng tác chiến đa nhiệm vụ của các hạm tàu sân bay Mỹ tỏ ra ưu thế. Trong tương lai gần, Nga cũng có kế hoạch đóng mới các tàu sân bay với xu hướng tương tự như Mỹ.

Tuấn Sơn