Thời gian gần đây, Ma-lai-xi-a đã tăng cường hiện đại hóa hải quân với việc ký kết một loạt hợp đồng mua tàu khu trục, tàu hộ tống và tàu ngầm. Trong đó có tàu khu trục hạm lớp Lekiu, tàu hộ tống Laksamana và tàu ngầm tiến công Scorpene được coi là ba loại chiến hạm chủ lực của lực lượng hải quân nước này.
Tàu khu trục Lekiu là chiến hạm mạnh nhất và hiện đại nhất của Hải quân Ma-lai-xi-a do Nhà máy Yarrow của Anh đóng theo thiết kế chuẩn của tàu khu trục hạm hạng nhẹ F2000. Khu trục hạm Lekiu dài 106 mét, rộng 12,75m. Tàu đạt tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ và có tầm hoạt động khoảng 8.000 km. Thủy thủ đoàn của tàu là 146 người, gồm 18 sĩ quan. Lekiu trang bị hệ thống tên lửa hành trình chống hạm tầm ngắn MM-40 Block II Exocet. Vũ khí phòng không của Lekiu gồm hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn Seawolf tầm bắn 6 km của hãng MBDA, dùng để đối phó với các cuộc tấn công của máy bay chiến đấu siêu âm và tên lửa hành trình. Ngoài ra, trên tàu còn bố trí 2 pháo phòng không 30 mm, tầm bắn 10 km, tốc độ bắn 650 phát/phút; pháo hạm Bofors 57 mm, tầm bắn 17 km. Lekiu còn lắp một cụm cơ cấu phóng lôi chống ngầm 324 mm. Boong tàu phía sau bố trí một khoang chứa trực thăng và sân đáp cho trực thăng chống ngầm Lynx của hãng AgustaWestland. Lekiu được trang bị hệ thống chỉ huy chiến đấu Nautis F, tương tự loại sử dụng trên tàu hộ tống Nakhoda Ragam của Brunei cùng các loại ra-đa tìm kiếm, ra-đa điều khiển hỏa lực, hệ thống định vị.
 |
|
Tàu ngầm tiến công Scorpene thuộc hải quân Malaysia. Ảnh: Internet
|
Tàu hộ tống Laksamana của Ma-lai-xi-a gồm 4 chiếc được chuyển giao xong trong giai đoạn 1997-1999. Tàu được trang bị tổ hợp tên lửa hành trình đối hạm Otomat Mark2/Toseo. Tên lửa lắp một đầu đạn thuốc nổ mạnh 210kg, tốc độ hành trình Mach 0,9, tầm bắn hiệu quả 150km. Laksamana sử dụng tổ hợp tên lửa phòng không Albatros trang bị tên lửa đối không Aspide để phòng chống máy bay và tên lửa diệt hạm. Trên tàu Laksamana bố trí 2 pháo tháp. Để hỗ trợ chống ngầm, chống hạm, tàu còn được trang bị thêm 2 cụm cơ cấu phóng lôi ILAS-3. Hệ thống điện tử của tàu gồm: Ra-đa sục sạo trên không-trên biển RAN 12L/X, ra-đa định vị Kelvin Hughes 1007, hệ thống đối phó điện tử (ra-đa đánh chặn INS-3, ra-đa gây nhiễu TQN-2), hệ thống định vị siêu âm ASO 94-41. Tàu có tốc độ tối đa 36 hải lý/giờ, tầm hoạt động 4.300 km.
Năm 2002, Ma-lai-xi-a ký hợp đồng mua hai chiếc tàu ngầm tiến công Scorpene của Pháp. Tùy từng biến thể, Scorpene có chiều dài 66 đến 76m. Thủy thủ đoàn của Scorpene gồm 31 người. Bên trong tàu phân thành các phòng điều khiển, phòng nghỉ ngơi của thủy thủ và phòng cách âm. Tất cả các phòng đều lắp điều hòa nhiệt độ cùng hệ thống bảo đảm sinh hoạt, cho phép thủy thủ đoàn tồn tại trong 7 ngày liên tục. Scorpene trang bị hệ thống điều khiển chiến đấu hiện đại SUBTICS và các hệ thống sonar dưới nước. Tàu ngầm Scorpene được lắp 6 ống phóng ngư lôi 533 mm ở mũi tàu (với cơ số 18 ngư lôi hạng nặng Black Shark) và tên lửa chống hạm phóng từ tàu ngầm SM-39 Exocet. Scorpene được trang bị động cơ diesel-điện, hệ thống động cơ không cần không khí (AIP). Tầm hoạt động khi chạy nổi khoảng 12.000 km (tốc độ 8 hải lý/giờ), chạy ngầm 1.000 km (tốc độ 5 hải lý/giờ), lặn sâu tối đa 300m, thời gian hoạt động trên biển trung bình 50 ngày.
Phương Nam