QĐND Online - Trong chuyến công tác ra khu Kinh tế cửa khẩu Ma Lù Thàng, trên Quốc lộ 100, chúng tôi như được trải tầm mắt qua những đồi cao su ngút ngàn xanh mướt mát. Những đồi cao su gần 4 năm tuổi đang vẫy nắng, vẫy gió, vẫy cả sự ấm no về cho những người đã mạnh dạn thay đổi tư duy cũ mà trồng loại cây này.

Cây cao su có mặt ở tỉnh Lai Châu từ năm 1992, khi đó cả tỉnh chỉ có 4ha trồng thí điểm (2ha ở huyện Phong Thổ, còn lại ở huyện Than Uyên), khi đó người dân chưa nhìn ra được ấm no ẩn mình đằng sau cái giống cây trông như gỗ rừng, nhiều lá, lắm nhựa ấy nên chẳng bảo vệ để gia súc phá, trẻ em chặt làm củi đun! Đến nay lứa cao su ấy chỉ còn 28 cây (đang cho thu hoạch) ở nhà ông Trang A Lều (nguyên Bí thư xã Hoang Thèn), còn ở huyện Than Uyên đã… mất dấu. Nay, nhận thấy phát triển cây cao su là hướng đi mới từ năm 2007 đến nay cây cao su được mạnh dạn đưa vào trồng thí điểm và đại trà ở tỉnh ta. Giống như một cuộc cách mạng, việc xây dựng các đại điền cao su đã thay đổi gần như toàn bộ bộ mặt các miền quê trước đây vốn rất nghèo và quạnh quẽ. Đến nay toàn tỉnh đã có hơn 3,6 nghìn ha cây cao su tập trung ở 5 xã vùng thấp huyện Sìn Hồ và huyện Phong Thổ. Cây cao su đang khẳng định là lựa chọn thích hợp nhất để giải bài toán đói nghèo cho nhân dân các dân tộc trên địa bàn.

Rộn rã quê nghèo…

Chúng tôi trở lại thăm những đồi cao su tại vùng thấp của huyện Sìn Hồ, màu đỏ loi lói của những ngọn đồi mới được hạ đường đồng mức, làm đất trồng cây ngày nào đã không còn. Còn nhớ những ngày đầu, anh bạn phóng viên ở Hà Nội còn nói đùa pha chút hoài nghi về tương lai của chủ trương, của cây cao su và của đất này rằng: Ngọn đồi trông như đĩa xôi gấc nhưng không biết có ăn được không. Giờ “đĩa xôi gấc” ấy đã biến mất, chỉ còn màu xanh lút tầm mắt. Mà mai đây, từ cái “đĩa xôi gấc” ấy là dòng nhựa trắng như sữa sẽ “tưới” tràn ấm no lên đất này. Chắc anh bạn tôi và những người bi quan nhất cũng sẽ phải nhận định lại.

Người dân xã Nậm Cuổi (Sìn Hồ) vừa tham gia góp đất trồng cao su vừa tham gia làm đất.

Bình minh ở bản Nậm Hoi (xã Nậm Cuổi – Sìn Hồ) dường như lên sớm hơn bởi những thanh âm rộn ràng của ngày lao động mới. Hàng tốp thanh niên trong bản, trong xã và cả các xã lân cận như Noong Hẻo, Nậm Hăn cùng tiến lên những ngọn đồi cao su. Đất này như “nàng công chúa ngủ quên” nay được đánh thức và đang vươn mình. Việc quy hoạch và trồng cao su tại đây đã tạo ra một lượng công việc khổng lồ, thu hút hàng nghìn lao động tại khu vực vùng thấp này và các địa phương khác trên địa bàn tỉnh với mức lương từ 1,8 đến 2 triệu đồng/lao động/tháng (có thể nói trong mơ người dân nơi đây cũng không dám nghĩ tới mức thu nhập hàng tháng cao đến vậy).

Trên lưng đồi, thấp thoáng dưới tán cao su là những bóng áo xanh, áo chàm của đồng bào nơi đây đang làm cỏ, vun gốc cao su. Sau những chiến dịch rầm rộ với hàng nghìn thanh niên của cả tỉnh về đây chung một mục đích sao cho màu xanh của cao su phủ đầy đất trống, đồi trọc ở nơi này thì dường nhận thức của người dân đã thay đổi. Thói trông chờ, ỷ lại và một phần lười lao động, an phận thủ thường, bằng lòng với khó khăn đã được thay đổi. Chẳng giống ngày trước, bây giờ không cần vận động người dân cũng tự giác đến trụ sở của Công ty Cổ phần Cao su số 1 Lai Châu ghi tên đăng ký làm công nhân của Công ty. Bên những ngôi nhà sàn, buổi nông nhàn cũng chẳng còn thấy những người đàn ông tề tựu bên mâm rượu, tán chuyện nữa mà tất cả bây giờ là cao su.

Ông Lò Văn Đón (bản Nậm Hoi – Nậm Cuổi) người trước đây đã cực lực phản đối chủ trương trồng cao su của tỉnh, giờ đã tự nguyện góp tới 13ha đất nương làm cổ phần để trồng cao su. Công việc ở nhà lúc nào ông cũng sắp đặt đâu vào đấy để tranh thủ cùng vợ, con lên đồi làm cao su. Những lời lẽ bất mãn mà chúng tôi gặp những ngày đầu bây giờ được thay bằng nụ cười xoà: “Mình chửa hiểu hết chủ trương của Đảng, lại sợ mất đất làm ăn. Bây giờ thì hiểu rồi, mình góp hết đất. Bây giờ á, mỗi ngày đi làm cho Công ty được trả trung bình là 50.000 đồng, cả nhà đi làm cũng được mấy trăm nghìn. Sau này công ty làm ăn có lãi, mình được chia lợi nhuận nữa. Thế thì chả sợ đói, nghèo! Cứ yên tâm mà làm thôi”. Ông Đón nói chậm dãi như thủ thỉ với chính lòng mình…

Có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định dường như đời sống xã hội nơi này cũng ổn định, văn minh hơn. Tôi gặp em Lò Văn Thịnh (bản Ná Lạnh – Nậm Cuổi) khi em đang dọn cỏ trên đồi cùng vài người bạn. Gạt những giọt mồ hôi lăn dài trên má, Thịnh tâm sự: “Đi làm cao su, vất thì có vất nhưng có thêm tiền giúp bố mẹ nuôi các em ăn học. Em gái em đang học ở trường Cao đẳng Cộng đồng Lai Châu!”. Thịnh nói như khoe và có phần tự hào vì chắc có lẽ đây là những việc làm mà em cảm thấy ý nghĩa nhất từ trước đến nay – làm lấy tiền nuôi em ăn học.

Nhớ lại quãng thời gian vận động bà con nhân dân, ông Trang A Nhàn – Chủ tịch Mặt trận tổ quốc xã Căn Co cho biết: “Bà con lo lắm, họ bảo lúa thì vụ nào ăn vụ ấy chứ cao su thì tận 5 năm mới bắt đầu cho thu hoạch lại không biết chắc lép thế nào, hiến đất xong thì ngồi chơi xơi nước à? Câu hỏi nhãn tiền của các hộ dân trong xã làm chúng tôi tốn không ít thời gian vận động. Thôi thì đến nhà, lên nương, họp bản, họp xã… đủ cả miễn sao phải “nhổ” được cái tâm lý e ngại của bà con. Vận động họ góp đất đã khó, nhiều người còn thiếu cộng tác nên chẳng có công nhân làm đất trồng cây. Lại vận động. Vận động đến khi bà con nhận thấy rằng đây là hướng đi đúng cách làm giàu mà tự xắn tay áo lên bươn vào đồi cao su mới thôi. Bây giờ thì anh thấy đấy, đến bản không gặp được bà con đâu, không khí nhộn nhịp phải ở trên đồi cơ”. Một ngày ở lại xã, chúng tôi đã được kiểm chứng lời ông Nhàn, quê ông giờ rộn ràng, tấp nập hẳn vào mỗi sáng, mỗi chiều khi bà con đi làm cao su về.

… rạng rỡ tương lai

Tôi may mắn là người được tham gia ngay từ những ngày đầu trong chiến dịch trồng cao su tại các xã vùng thấp của huyện Sìn Hồ. Từng đoàn xe chở hơn một nghìn đoàn viên thanh niên hăm hở với nhiệt huyết của tuổi trẻ để thử thách chính mình. Và ở đây họ thật sự được nếm trải những khó khăn bộn bề của các xã nghèo. Trong cái nóng như nung nơi đất trời vùng thấp, những lều bạt dường như chỉ làm cho không khí thêm ngột ngạt bởi ở đây chưa có điện lưới quốc gia. Người đi làm đã vất, người phục vụ việc bếp núc còn vất hơn, giao thông ở khu vực này luôn trắc trở và cách trở mỗi khi mưa về nên đã có lúc tưởng như cả nghìn thanh niên tình nguyện ở đây lâm vào cảnh thiếu ăn do lượng lương thực, thực phẩm dự trữ không đủ và vô vàn những khó khăn khác…

Các đoàn viên thanh niên tình nguyện làm đất trồng cao su.

Nhưng đó là chuyện của ngày trước, hôm nay vùng thấp đã không còn cảnh cô lập như trước nữa. Để góp phần tạo điều kiện cho vùng cao su phát triển, thúc đẩy nền kinh tế địa phương, Nhà nước đã đầu tư xây dựng đường nhựa, đường cấp phối nối liền mạch giao thông giữa các xã với trung tâm huyện. Các con suối, sông đã được làm cầu, ngầm bê tông kiên cố đảm bảo đi được cả 4 mùa. Đường tốt, các hộ dân đã mạnh dạn mua xe máy, nhiều người thức thời còn xắm cả ô tô loại nhỏ để vận chuyển hàng, làm kinh tế… Đường đã có, điện cũng đang được kéo về. Chẳng bao lâu nữa câu hát ánh điện thay sao xua đi tăm tối sẽ trở thành hiện thực và người dân nơi đây sẽ hoà nhịp phát triển với khắp chốn ngược, miền xuôi. Không chỉ vậy, các cơ sở hạ tầng khác ở khu vực này như hệ thống nước sinh hoạt, kênh mương nội đồng, thuỷ lợi… cũng đang được đầu tư nâng cấp, xây dựng tạo tiền đề để đất này đi lên.

Bây giờ, những sự hoài nghi, chắc lép về tương lai của cây cao su, của người trồng cao su và của người dân nơi này chắc chắn đã được xoá bỏ. Trong nắng, trong gió, trong cả cái khó nhọc khô cằn của những trảng đồi trọc, hoang hoá ngày trước, cây cao su vẫn vươn lên, lớn mạnh thay lời khẳng định về một tương lai tươi sáng cho đất này. Đã không còn những lời bàn tán, những đám đông túm năm tụm bẩy tìm cách ngăn cản việc góp đất trồng cao su nữa mà thay vào đó là gương mặt rạng rỡ của những người từ trên đồi cao su về. Tôi còn nhớ như in gương mặt hớn hở của một vài lão nông ở xã Ma Quai (Sìn Hồ) khi họ nhận khoản tiền công làm đường đồng mức, đào hố trồng cao su là hơn 2 triệu đồng. Hỏi: bây giờ ông còn lo bị đói nữa không? Họ trả lời bằng giọng đặc thổ âm nhưng vô cùng chân thật: Đi làm cao su cho Nhà nước không lo mất mùa, lại được trả nhiều tiền. Không lo đói…

Giải quyết được vấn đề cơm gạo, người dân đã bắt đầu lo cho thế hệ tương lai và cách họ “để dành” chính là cho con ăn học. Có thể kể ra đây rất nhiều hộ gia đình đã biết dành dụm, tích cóp, chăm chỉ làm cao su lấy tiền cho con cái lên tỉnh học và nhiều người đã khuyến khích con em mình theo đuổi nghề lâm sinh để trở về quê sinh nghiệp. Em Trần Văn Thành – sinh viên lớp lâm sinh của trường Trung cấp Nghề tỉnh Lai Châu khẳng định với chúng tôi một câu chắc nịch: “Em sẽ về quê làm công nhân cao su”. Tôi biết không chỉ Thành còn nhiều sinh viên khác đang ngày ngày cóp nhặt kiến thức từ giảng đường để đến khi tốt nghiệp sẽ trở lại và làm giàu trên chính mảnh đất mà ông cha họ đã không biết làm sao biến thành cơm áo.

Ông Lê Tiến Tình – Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần cao su Lai Châu cho biết: “Trồng và chăm sóc cũng như khai thác cây cao su đòi hỏi một lượng nhân lực, vật lực lớn, đòi hỏi tay nghề, kỹ thuật cao. Mặc dù hoàn toàn có thể tuyển công nhân từ những nơi khác đến nhưng để góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương, chúng tôi ưu tiên tuyển chọn con em đồng bào địa phương vào làm việc, vừa học vừa làm để sau này họ trở thành những người công nhân lành nghề phục vụ chính quê hương của họ. Chúng tôi cũng liên hệ với các trường chuyên nghiệp, dạy nghề trên địa bàn hàng năm đều có kế hoạch tuyển công nhân, kỹ thuật để người Lai Châu gắn bó hơn với đất và cây cao su ở Lai Châu”.

Bây giờ người trồng cao su nói chung và người trồng cao su ở Lai Châu (nhất là cao su đại điền ở Sìn Hồ) nói riêng đã có thể yên tâm về tương lai của mình. Sự phát triển mạnh mẽ của cây cao su giống như cuốn sổ tiết kiệm mà mỗi gia đình góp đất là người gửi tiết kiệm đảm bảo, chắc chắn rằng họ sẽ được hưởng một phần lợi nhuận từ cổ phần họ đã tham gia với Công ty. Khi cây chưa cho thu hoạch họ cũng không phải lo nhiều đến cái ăn cái mặc bởi cao su đã giúp họ có việc làm, thu nhập ổn định, con cái được học hành và quê hương thì ngày một đổi mới.

Xuân đã về với vùng đất khó theo từng nhịp vẫy trên tán, trên cành từ những đồi cao su.

Bài, ảnh: Khánh Kiên