 |
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo. Ảnh: Internet. |
Tôi biết Thượng tướng Hoàng Minh Thảo khi cuộc kháng chiến toàn quốc vừa bùng nổ (12-1946). Lúc ấy ông còn rất trẻ, mới 25 tuổi, là Khu trưởng Chiến khu 3 (từ 10-1945). Đối với chúng tôi, lớp Thiếu sinh quân ngày ấy, ông không những là vị chỉ huy quân sự cao nhất của mấy tỉnh miền duyên hải Bắc Bộ mà còn là người anh vừa quý mến, vừa thân thương. Hình ảnh của ông, phong cách của ông, những câu chuyện tâm tình mang tính giáo dục sâu sắc đã hun đúc lý tưởng của chúng tôi, gợi mở những chân trời mới, kích thích lòng hăng hái phấn đấu hy sinh trên con đường cách mạng, gieo vào lòng chúng tôi những ấn tượng mạnh mẽ.
Những mẩu chuyện ông kể về hoạt động chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, đặc biệt là Chiến khu Việt Bắc, đã gây cho tôi lòng cảm phục và quý mến đồng bào các dân tộc (tuy rằng lúc đó tôi chưa hề biết Việt Bắc là đâu) và ao ước sẽ có ngày được lên Việt Bắc, được biết Thất Khê, Tràng Định, Cao Bằng v.v..; được gặp gỡ những ông ké, bà mế, những thanh, thiếu niên, nhi đồng… những người đã hăng hái tham gia cách mạng và đùm bọc, che chở cho cán bộ hoạt động chiến đấu cướp chính quyền.
Ông đã dạy chúng tôi: “Làm cách mạng phải biết kính trọng và thương yêu đồng bào, trong kháng chiến ở nhà dân, dựa vào dân phải làm sao cho dân quý, dân thương, dân giúp đỡ…”; “Làm cách mạng phải biết chịu đựng gian khổ, không ngại hy sinh; phải luôn sống lạc quan, dù sống ở đâu, làm công việc gì, bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng phải tạo ra điều kiện thích hợp với mình để phấn đấu đi lên mới là người có bản lĩnh”. Ông dạy chúng tôi lối sống giản dị song đề cao tính độc lập và tôn trọng tự do của từng người, biết trân trọng cái hay của người khác.
Trong công việc, ông luôn chú ý lắng nghe ý kiến của mọi người, tìm thấy những ý tốt trong từng lời phát biểu, cũng như nhìn thấy mặt mạnh của từng cán bộ và đối xử thân mật, bình đẳng trên tình đồng chí mà không phân biệt chức vụ, địa vị cao hay thấp. Ông thường nói: “Anh em mình quý nhau là ở phẩm chất cách mạng, còn việc làm cao hay thấp (địa vị) là do điều kiện, hoàn cảnh của từng người”. Mọi người dễ gần gũi với ông, bởi sự nhân ái và đức độ của ông.
Khi tiếp xúc với cấp trên, cấp dưới thường hay e dè hoặc kém tự nhiên (nhất là trong ăn, uống) nhưng khi được sống gần ông thì điều đó lại không xảy ra. Trong sinh hoạt, có một vài chuyện nhỏ mà tôi nhớ mãi.
Năm 1947, Khu bộ Chiến khu 3 đóng ở huyện Phủ Dực (Thái Bình). Một lần trên đường đi công tác rẽ vào hàng ăn sáng, mọi người đang còn phân vân thì ông cho phép: “Với tiêu chuẩn nhất định, ai muốn ăn gì thì ăn không cần thống nhất”. Đó là một ý hay, ông đã chú ý đến tự do, sở thích của từng người. Rồi đến bữa cơm trưa, cùng ngồi một mâm, ai cũng có vẻ giữ ý tứ, món ngon không ai dám gắp trước, ông bảo: “Ai thích ăn món gì trước thì cứ việc ăn, miễn là đừng ăn quá nhiều làm mất phần người khác”. Phong cách của ông thoải mái thế đấy! Ở gần ông, tôi chợt hiểu ra một điều: Trong sinh hoạt, những cái gì không thuộc phạm vi nguyên tắc thì không nên câu nệ, gò bó.
Thế rồi, cuối năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta đã dần phát triển, lớp thiếu sinh quân chúng tôi cũng có sự biến động. Theo yêu cầu của tổ chức, một số ra đơn vị chiến đấu, tôi và một số đồng chí được đi học, sau về công tác và chiến đấu ở Quân chủng Phòng không… Từ đó, chúng tôi không còn được quây quần bên ông nữa, song từng người với mức độ, hoàn cảnh khác nhau vẫn giữ được liên lạc với ông và giữ mãi những ấn tượng tốt đẹp về ông.
Tôi đã xa ông khoảng ba chục năm trời (1948-1978) để rồi từ năm 1978 cho đến nay lại được gần ông, làm việc dưới sự chỉ bảo của ông. Tuy rằng cấp bậc ngày càng cao, tuổi tác ngày càng già, song ông vẫn cho phép tôi được xưng hô với ông bằng từ “Anh Thảo” thân mật như thời năm 1946. Rồi đến năm 1990, tôi lại được điều về làm Chánh văn phòng Viện Chiến lược quân sự do ông làm Viện trưởng. Thật may mắn và hạnh phúc cho tôi, khi mới vào bộ đội là chiến sĩ đã được ông dạy dỗ, nay đến giai đoạn cuối đời quân ngũ lại được sống và làm việc bên ông. Ông đã để lại trong tôi những ấn tượng vô cùng tốt đẹp bởi phẩm chất đạo đức, tài năng và sự cống hiến. Ông vừa là vị tướng vừa là nhà khoa học quân sự tài ba. Ông là vị tướng có thực tài (đã chỉ huy là đánh thắng), nhà khoa học quân sự có nhiều công trình giá trị… để các thế hệ kế tiếp noi theo học tập.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo là người chỉ huy, lãnh đạo biết huy động, tập hợp và sử dụng cán bộ. Nhiều đồng chí ở đơn vị này, đơn vị khác lẽ ra đã nghỉ sớm hoặc chuyển công tác khác, nhưng về với ông, mọi người đều phát triển, nhiều người đã trở thành tướng lĩnh, những cán bộ cao cấp có học hàm, học vị và phục vụ lâu dài trong quân đội... Thế mới biết, tầm nhìn của ông sắc sảo đến nhường nào! Chẳng thế mà ông thường được cấp trên tin cậy giao cho những việc khó, chỉ huy những đơn vị mới thành lập, khó khăn muôn bề... thế nhưng mọi việc đều hanh thông, tốt đẹp.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo thật xứng đáng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh (1996). Ông là vị tướng mà các thế hệ cán bộ trong toàn quân biết đến với tấm lòng kính trọng như người thầy, bởi tài nghệ và đức độ. Ông là Giáo sư được Nhà nước phong tặng Nhà giáo Nhân dân đợt đầu tiên. Ông là người chỉ huy sắc sảo và kiên quyết trong nghệ thuật nhưng lại là người cán bộ nhân ái bao dung như người anh gần gũi của các cán bộ thuộc quyền; là người đồng chí, người bạn chân thành của những tướng lĩnh, cán bộ cùng trang lứa.
Ông chăm lo đến sự tiến bộ của từng người, phát huy mặt mạnh của từng cán bộ, thăm hỏi động viên, quan tâm giúp đỡ giáo dục cán bộ, nhân viên. Ông đối xử với lái xe, công vụ như con cháu trong nhà. Lúc có công có việc, trong những dịp lễ, tết hoặc ngày mừng ông thêm tuổi mới… ngoài con cháu trong nhà ra, ta còn gặp cả những người đã từng có thời công tác dưới quyền hoặc phục vụ ông… Với họ, ông là người thân thiết và tin cậy. Dù rằng đương chức hay đã nghỉ hưu, nhưng nhà ông thường xuyên có khách, đủ các đối tượng. Khi thì mấy ông ké ở Thất Khê, Cao Bằng (cơ sở cách mạng cũ) xuống chơi, khi thì mấy cán bộ cấp dưới đến xin ý kiến ông hướng dẫn luận án tốt nghiệp, khi thì bản thân hoặc vợ con những anh em công vụ, lái xe cũ đã có một thời gắn bó phục vụ ông, lúc thì các bạn chiến đấu già gặp nhau đàm đạo về thế sự, thời cuộc… Căn nhà của ông lúc nào cũng đầy ắp tình người.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo đã ra đi ở tuổi 88. Trước vong linh ông lệ sầu rơi xuống. Những tình cảm của thế hệ cán bộ đàn em đối với ông cứ tuôn trào. Bài viết này như nén tâm nhang tưởng nhớ tới ông – người chỉ huy tài năng, đức độ với những tình cảm sâu đậm, chân thành nhất của những người em.
NGUYỄN LIÊM