Sống chết với biển

Báo tường đại đội tôi, tôi có thơ:

Bước chân trên đất Tĩnh Gia

Mùa xuân đang đến gần xa reo cười

Lắng nghe dào dạt biển khơi

Dưới chân cát mịn trên trời mưa bay

Tiểu đoàn chúng tôi gắn với một binh đoàn bộ binh mạnh. Danh tính thì vẫn là Trung đoàn bộ binh 57, trên thực tế nó đã phình to với các binh chủng kĩ thuật: Pháo tầm xa, xe thiết giáp, pháo cao xạ. Phải giữ vững Hòn Mê, Hòn Nẹ; sẵn sàng chặn đứng các đơn vị đổ bộ hùng mạnh của thuỷ quân lục chiến và lục quân Mỹ, nguỵ. Những năm tháng này có nhiều tin Mỹ sẽ đổ quân ra miền Bắc nhằm giữ các đơn vị chủ lực tinh nhuệ của ta ở lại hậu phương. Theo dự kiến chúng sẽ đổ bộ vào vùng Tĩnh Gia, nhanh chóng cắt đứt quốc lộ số một và đứng vững chân ở vùng núi vừa là đất Thanh vừa là đất Nghệ. Nhiệm vụ của tiểu đoàn pháo cao xạ 37mm chúng tôi bây giờ không chỉ bảo vệ giao thông trên cung đường huyết mạch mà bảo vệ pháo bờ biển và cơ động theo các đơn vị bộ binh. Nhiều đêm đột ngột trở dậy thầy trò kéo pháo ra tận mép nước áp sát lính chân đất. Rải tấm ni lông trên cát ẩm trong rừng phi lao. Nằm xạng cẳng ngắm một ánh sao trời. Ngủ mê với sóng một nhoáng lại bị đánh thức vì tiếng tàu Mỹ ngoài xa vọng vào

Tiếp đạn cho trận địa pháo bảo vệ bờ biển. Ảnh tư liệu

Một tiểu đoàn pháo tầm xa, loại ca nông nòng dài 130mm, những ông voi khổng lồ phải dùng xe xích cỡ đại mới kéo nổi, giữa đêm ầm ầm lẩn vào khu rừng phi lao tốt ngợp xã Hải Ninh. Chưa đầy tuần ông Thượng tá Quốc Long, Trung đoàn trưởng cấp binh đoàn lại ra lệnh mới chuyển các trận địa pháo tầm xa sang bờ biển thuộc xã Hải An. Nơi ấy có các cồn cát cao phía sau, đằng trước bãi phi lao thưa cây lớn. Đại đội tôi bám sau lưng mấy ông voi có tầm bắn xa mấy chục cây số có thể vươn tới các tầu khu trục, tầu tuần dương Mỹ ngày ngày xâm phạm lãnh hải nã pháo vào tới tận các làng huyện Nông Cống. Chúng tôi làm trận địa trên các bãi tha ma, chẳng biết đã mấy chục đời dân biển chôn người thân mà các mộ lèn dày đặc. Dùng loại xẻng pháo xúc cát sâu ba mươi phân đã gặp tiểu sành. Hố trinh sát trực ban bàn chân đặt lên tiểu, lưng tựa vào tiểu sành. Trong lán trinh sát đo xa, chiếc phản gỗ tôi nằm phía đầu gối lên chiếc tiểu sành khá mới. Phía chân lán đi lên vẫn một bộ tiểu khác. Đúng ra chúng tôi phải chuyển những chiếc tiểu sành này đi. Nghĩa địa chật ních, mộ chen nhau. Nhiệm vụ chiến đấu khẩn trương, sáng ra phải nổ súng được ngay bảo vệ đơn vị bạn.

Còn nhọ mặt người anh nuôi đã gánh cơm ra trận địa. Cơm gạo dẻo có cá trích kho. Sáng ăn bữa chính, rau có bí đỏ. Lính ấm bụng, báo động hoặc đánh nhau quá trưa vẫn còn sức. Trưa ăn bữa phụ, tiêu chuẩn một bát cơm ăn với vừng lạc hoặc là nước chan chạy qua hàng nước mắm hoà với nước hàng thắng đường. Tôi xúc vội bát cơm, gắp con cá trích to ra đứng bên miệng hố trinh sát. Cậu trinh sát quê Quảng Xương - Thanh Hóa mới bổ sung có sáng kiến lấy lá kè khô ghép thành tán tròn có cọc tre ở giữa nghiêng theo hướng mặt trời, che nắng. Chúng tôi gọi đó là cái tầu vua, ông “vua” ranh con một mình đứng quản cả bầu trời, mặt đất và biển cả. Giơ ống nhòm đeo trước ngực lên mắt tôi nhìn thấy hai chấm nhỏ phía biển xa. Nhìn cái chấm tròn tròn chầm chậm, xù ra từ từ tôi biết ngay là máy bay AD6.

Tiếng kẻng gõ dồn đập. Tôi nhờ anh nuôi bê xoong cơm và đĩa cá chạy vào lán.

Hai chiếc AD6 bay thấp rất gần bờ. Tiếng vè… vè… như thúc vào tai. Nó vòng ra xa rồi ngoặt lại bay thẳng vào trận địa pháo tầm xa.

Chiếc AD6 lừ lừ bay vào. Ở vị trí tôi đứng nhìn nó thấp hơn ngọn các cây phi lao già. Các khẩu đội báo cáo góc tà bằng không, khẩu đội một báo cáo góc tà âm.

Anh Dương hô to:

- Khẩu đội một gạt bớt nguỵ trang, bạt bớt công sự từ hướng 14 đến 4 đến 34 bám địch (từ đông bắc qua đông sang đến nam - phía biển)

- Bắn !

Chùm đạn bay trên lưng chiếc AD6, chiếc này bắn pháo khói chỉ điểm. Chiếc thứ hai phóng rốc-két. Chuyện ngược đời, trước nay bọn AD6 mang vũ khí nhẹ, kể cả bom, hôm nay vớ “mồi” lớn nên nó thành tên chỉ điểm. Bọn phản lực xuất hiện ngay. Từ biển, hai tốp A4 và F4 bay vào. Đài quan sát Hòn Mê báo cáo về 2 tàu khu trục vào gần bờ, 5 tàu biệt kích tăng tốc quây mảng và thuyền ngư dân hai huyện Quảng Xương và Tĩnh Gia. Đại bác tầm xa lên tiếng. Mấy ông voi khổng lồ bắn phát một rung cát dưới chân tôi. Một cuộc hỗn chiến của pháo cao xạ, của rốc-két, bom, pháo tầm xa của ta và pháo lớn từ tầu Mỹ bắn vào. Cát vàng phụt lên vỡ ra thành bụi cùng với khói bom che kín một dải bờ biển. Lần đầu tiên đại pháo ta đánh tầu Mỹ trên bờ biển xứ Thanh. Tàu khu trục và cả tuần dương hạm Mỹ áp vào tận phía trong đám tàu biệt kích. Hai chiếc AD6 lì lợm và gian giảo chui vào vùng khói rồi bất thần hiện ra. Hướng bay đúng vào đại đội tôi. Anh Dương cho đánh vỗ mặt. Bọn này phát hiện ra sự nguy hiểm từ pháo cao xạ ngay sau lưng đại đội pháo biển. Nó vọt lên trên tầm đám khói, nghiêng cánh quan sát chỉnh cho pháo biển Mỹ dịch dần về trận địa chúng tôi. Đầu tiên là pháo 76mm nổ rền như sấm. Trên tàu khu trục chúng trang bị 06 khẩu 203,2mm, 12 khẩu 127mm, 24 khẩu 76mm. Hỏa lực trên tàu tương đương một trung đoàn pháo dã chiến. Pháo 127mm nổ to chắc gần giống tiếng pháo ta. Pháo 203,2mm bắn chậm, nổ âm sâu, đầy vẻ đe dọa. Tôi đứng nhô từ ngực lên để quan sát hai chiếc AD6. Pháo nổ cách hố trinh sát tôi đứng ba mươi mét, rồi hai lăm mét… Nhiều quả cách mười lăm mét, thậm chí chỉ cách mười mét, sáu hay bẩy mét. Tôi nghĩ nhanh thằng này nhìn rõ mình chăng?

Có lúc chiếc AD6 nhô ra khỏi đám khói ngay trên đầu trận địa tôi. Anh Dương cho phép khẩu đội nào nhìn rõ máy bay khẩu đội trưởng được phép tự động cho bắn. Tôi đứng lên, pháo nổ bên cạnh, được phép ngồi trong hố tránh mảnh pháo nổ xong lại phải đứng lên ngay chỉ thị mục tiêu.

Đơn vị pháo biển của ta bắn thưa dần. Tôi nghe cậu thông tin nghe điện báo cáo anh Dương đơn vị bạn bị thương vong khá nặng, một khẩu bị pháo địch nổ trên công sự hỏng càng. Máy bay phản lực đánh trúng trận địa, bộ đội và một số nữ dân quân Hải An ra hợp đồng chiến đấu bị bom vùi hi sinh. Số bộ đội, dân quân bị thương chưa đưa đi bệnh xá được.

Anh Dương quát to:

- Nhìn vào cờ của tôi.

-  Đánh tập trung, chi viện cho đơn vị bạn

Tôi thấy chỉ còn một chiếc AD6 ò è, có lẽ một chiếc khác bị thương hoặc cạn dầu buộc phải về hạm đội chăng?

Cậu thông tin lại hứng khởi thông báo:

- Đài quan sát Hòn Mê báo về, hai chiếc thuyền gỗ của ta sáp được vào mạn tàu biệt kích tung bộc phá, nổ súng lớn bắn cháy tàu biệt kích. Một chiếc khác bị hỏng nặng đang chậm dần.

Tàu địch bị thương không chạy được đứng tại chỗ. Bọn tàu biệt kích quây lại. Cả ba chiếc quây lại cứu nguy. Hai chiếc khu trục hạm Mỹ cũng tiến về cụm tầu này. Súng trên thuyền gỗ ngừng bắn vì hết đạn hay là anh em ta đi trên đó tất cả đã hi sinh.

Pháo biển của ta từ trận địa biển trước trận địa tôi ngừng bắn. Họ sợ pháo bắn vào cả chiếc thuyền gỗ anh hùng hoặc chính đơn vị họ cũng bị thương vong nhiều.

Gần tối đài quan sát Hòn Mê báo về không thấy chiếc thuyền gỗ của ta. Có lẽ anh em mình trên tầu đã hi sinh tất cả, con thuyền chìm xuống đáy đại dương. Không thấy trên thông báo gì thêm về hai con thuyền gỗ dũng cảm chưa rõ tung tích. Bản tin thời sự Đài Tiếng nói Việt Nam thông báo trong ngày quân và dân Tĩnh Gia, Quảng Xương - Thanh Hóa đánh đuổi tàu khu trục, tuần dương Mỹ và bắn chìm, bắn bị thương nặng tàu biệt kích Mỹ - ngụy. Không thấy đài nói thương vong của ta.

Hết phiên trực ban tôi được phép vào nhà dân tắm rửa. Vệt đường trên cồn cát bị pháo Mỹ nổ cầy lên từng khúc. Tôi cố bước cho thẳng thớm, vì hai bắp đùi và cả bắp chân đau nhừ. Hai mắt đau nhức vì bụi cát. Da mặt, cổ dính đầy cát và mùi thuốc súng. Mái tóc cứng lại, khét lẹt. Tôi lê bước chếch ra biển. Rừng phi lao trận địa đại pháo những thân cây lớn rách xơ tướp, đổ chồng lên nhau. Có cả cây phi lao khô nằm xuống lửa âm ỉ hai đầu. Mùi máu, mùi thức ăn không kịp tiêu hoá trộn với mùi thuốc pháo ập về phía tôi.

Xuống dốc cát, rẽ vào ngôi nhà đặt bếp đơn vị, tôi đứng lại ngạc nhiên nhìn đám cây dã quỳ xòe những đám lửa vàng chói. Những bụi hoa ngày thường ít người để ý. Cũng lạ, dân Hải An nhiều nhà trồng trước ngõ, bên những ngôi mộ bề thế và bờ dậu thứ cây hoa dại này. Loài hoa, lá và thân đầy lông nhám trên mặt lá và thân cây. Chúng sống khỏe, vươn lên cao và nở những đóa hoa vàng. Mải nhìn ngắm hoa dã quý tôi không kịp nhận ra một cô gái cao cao, nhỏ nhẹ đến gần. Cô ngạc nhiên nhìn tôi như nhìn cái gì lạ lắm, đôi mắt mở to hơi hốt hoảng:

- Anh vào lấy cơm hay đi tắm?

- Tôi không biết!

Cô vồn vã:

- Anh nuôi vừa gánh cơm ra trận địa.

- Bà con Hải An ủng hộ cá ngon lắm đấy anh ạ.

Tôi đứng im lặng.

Cô giục:

- Anh tắm đi. Người anh đầy cát và mùi thuốc bom, thuốc pháo.

Tôi vẫn im lặng

Cô nói như khóc:

- Anh tắm rồi vô ngoài đó ăn cơm, nghỉ ngơi, mai hắn lại đánh nữa đó.

- Anh nghe em ra giếng tắm đi nhá.

Tôi bần thần nói nhát gừng:

- Tắm ở chỗ nào được bây giờ hở o?

- Em vô nhà. Anh ra giếng tắm. Anh cứ tự nhiên đừng ngại gì cả. Tắm xong đi. Để quân phục lại em giặt cho.

Tôi chậm chạp bước về phía cái giếng khơi, đầy nước. Trong bếp của anh nuôi củi gốc phi lao vẫn còn đỏ lửa. Căn bếp nhỏ của chủ nhà tro than tắt ngúm. Cô gái vẫn đứng bên sau cánh cửa gỗ mở hé đôi mắt to sáng lấp lánh. Có lẽ đó là một cô học sinh đang học cấp ba. Tôi tựa vào thành giếng, một ngày chiến đấu căng thẳng. Sự sống và cái chết cách nhau có vài mét thôi! Nếu một quả pháo nổ đúng vào cái hố nơi tôi đứng thì bây giờ tôi không còn đứng bên cái mạch nước giếng trong mát này. Và tôi nghĩ tới con thuyền gỗ mà ở vị trí hiện tại tôi chưa được phép biết nó từ chỗ nào trong bờ lao ra bằng những cánh tay chèo mạnh mẽ, quyết liệt lao vào, sát vào, cắm nòng súng vào con quái vật biển tốc độ cao, có hàng chục thậm chí hàng trăm họng lửa giết người. Cô gái trong nhà lại nhô ra ngoài cánh cửa mở hé:

- Anh nghe em đi anh!

- Tối rồi trời lạnh, anh ốm đấy!

Tôi không rõ mình tắm lúc nào và xong khi nào. Tâm tính tôi vẫn bị hút về trận đánh trên bờ, trên biển. Về những con người sống chết với biển. Những con người ngã xuống trên bờ và trên mặt biển trống trải không có vật che, không có nơi ẩn nấp. Chỉ còn có cách duy nhất là tấn công địch để bảo vệ mình.

Tôi mặc chiếc quần đùi lính, áo cổ vuông ướt sũng để đi về trận địa. Sau một ngày kịch chiến mảnh bom, mảnh pháo phạt cây, chém cành rừng phi lao trở nên trống trải. Biển ngoài xa thẫm đen và im lặng. Chả lẽ biển xóa sạch rồi sao? Tôi không ngờ phải mấy chục năm sau, vì một sự tình cờ hay một mối duyên nợ chưa xong tôi mới được nghe về hai chiếc thuyền gỗ tấn công tàu biệt kích Mỹ trên bờ biển xứ Thanh. Nghe kể kĩ câu chuyện về những con người dân dũng cảm, dám xả thân, sẵn sàng hi sinh thứ báu vật quý nhất đối với đời người là tính mạng, sinh mạng còn trẻ trung của mình.

 Bút kí lịch sử của  Đại tá, nhà văn ĐÀO THẮNG 

Kỳ V: Áp sát phía nam cầu Hàm Rồng

 

 

Kỳ III: Ăn Tết bên cầu Hổ, cầu Đồi