Khi vừa thấm mệt cũng là lúc những chái nhà ngả màu úa vàng cũng thấp thoáng hiện ra. Chúng tôi như bước vào một thế giới khác, thế giới đầy bí ẩn của những ngôi nhà sàn nho nhỏ, tường ghép từ vỏ cây thông, lợp lá gianh-thứ lá ấn tượng với tôi trong tiểu thuyết của các nhà văn thời chống Pháp khi đồng bào Ba Na phải dỡ mái nhà đốt lấy tro ăn thay muối vì bị giặc vây. Thú vị hơn khi ngước mắt lên, lẫn giữa những tán thông cổ thụ là mấy ngôi nhà treo trên cây như tổ chim, có lối lên bằng thang gỗ. Ông Phúc dẫn chúng tôi thăm những hầm chữ A, hào cơ động, một vài lán lợp lá trung quân của bộ đội thời kháng chiến được ông dày công tôn tạo, sửa sang cho du khách tham quan cuộc sống của cán bộ, bộ đội thời kháng chiến. Khi đã mỏi chân, mỗi người sẽ tự ý lấy cái võng màu xanh lá cây đã được chuẩn bị sẵn mắc chắc chắn lên cây, nằm đung đưa trong tiếng chim rừng, suối nhạc róc rách mà thấy cuộc đời thật nhẹ nhàng, bụi trần, mệt mỏi vơi tan đi đâu hết…
Giữ nguyên cái bồi hồi ấy, trèo lên đỉnh núi Voi-Đá Tiên, khi cái không gian bao la của thông, rặt một màu thông phơi mình dưới cái nắng chênh chao, vàng vọt chớm hạ cùng bóng nước hồ Tuyền Lâm hiện lên làm tôi chợt mường tượng cảm xúc của vị bác sĩ y khoa A.Y-éc-xanh hơn một trăm năm trước khi người vừa đặt chân lên cao nguyên Lâm Viên: “Từ trong rừng thông bước ra tôi sững sờ khi đối diện một bình nguyên hoang vu giống như mặt biển tràn đầy những làn sóng màu xanh lá cây. Sự hùng vĩ của rặng Lang Biang hòa lẫn vào đường chân trời tây bắc tạo nên bối cảnh tráng lệ, gia tăng vẻ đẹp của vùng đất này” (“Nhật ký A.Y-éc-xanh”, 21-6-1893). Chính cái cảm giác sững sờ ấy có lẽ đã khiến Toàn quyền Pháp Pôn Đu-me chọn Đà Lạt để xây dựng thành một “đỉnh cao”, mang cảm hứng từ Petropolis ở Bra-xin, Baguio ở Phi-líp-pin, Côte d’Azur ở Pháp đến những thị trấn đồi núi ở Hà Lan, một hiện sinh “mẫu quốc” với đầy đủ biệt thự, công sở, khách sạn và trường học, một trung tâm du lịch và giáo dục của Đông Dương thời thuộc địa…
Nhà của người Cơ Ho ở núi Voi. Ảnh: LƯƠNG HỮU.
Còn ở núi Voi, ngọn núi nổi tiếng không kém Lang Biang, tôi muốn nói đến Đà Lạt ở một điểm nhìn khác, có chủ nhân xa xưa của vùng đất này, những cư dân người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho cùng những truyền thuyết đậm đà phong vị đại ngàn, vừa thâm u, bí hiểm mà rất đỗi giản dị, nhân văn. Huyền thoại kể rằng, rặng núi Voi vốn là hiện thân của hai con voi ở vùng La Ngư Thượng (thời cỏ cây, muông thú cũng biết nói, biết giao tiếp với nhau, hai con voi có ơn với nàng Biang và chàng Lang) đi dự lễ cưới của nàng Biang và chàng Lang. Khi đến đồi Cà Đắng, nay gọi là đèo Prenn thì nghe tin chàng Lang và nàng Biang qua đời vì những hủ tục lạc lậu của người làng. Quá đau buồn nên cả hai không còn đủ sức để vượt qua dốc Cà Đắng, ngã quỵ giữa đường mà chết. Xác voi biến thành hai ngọn núi mà ngày nay, từ Quốc lộ 20 qua địa phận Định An (huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng), có thể nhìn thấy được nguyên hình dáng của hai con voi với đôi chân trước phủ phục hướng về phía Prenn… Thật đáng tiếc, cành cây xanh khá lớn được cắm dưới chân núi trước cổng vào ngôi làng Darahoa của đồng bào Cơ Ho báo hiệu làng đang có tang ma nên chúng tôi không được xâm nhập, trải nghiệm trong ngôi làng của họ.
Trở về bên bếp lửa đỏ rực trên nhà sàn trong buổi hoàng hôn như xóa đi cái lạnh mơn man đang ùa từ đỉnh núi Voi xuống. Cựu chiến binh Nguyễn Đức Phúc hào hứng kể lại những câu chuyện nhổ bốt, lập căn cứ trong kháng chiến. Ông Phúc bảo: Núi Voi còn là căn cứ kháng chiến ra đời từ những năm 1950. Với địa hình phức tạp, hiểm trở, rất thuận lợi cho các hoạt động quân sự, làm bàn đạp tấn công địch ở Đà Lạt và khống chế đánh địch ở Quốc lộ 20, nên từ rất sớm, núi Voi đã được chọn làm căn cứ hoạt động bí mật của Thị ủy Đà Lạt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đồng thời cũng là căn cứ tiền phương của tỉnh và của Khu 4 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước… Trong buổi hoàng hôn nhập nhoạng ấy, ông kéo chúng tôi ra khỏi gác nhà sàn, đôi tay run run khoát một vòng, chỉ về một "yên ngựa" thấp thoáng trong sương mù. Đấy là đồi Yên Ngựa, đầu năm 1972, Đại đội 302 cảm tử ngụy quân đánh lên bị ta diệt toàn bộ 98 tên, thu được 100 khẩu súng các loại. Sau trận đánh này, địch dùng các loại pháo hạng nặng bắn ào ạt vào các khu căn cứ của ta, nhưng nhờ tiên đoán trước sự việc, ta rút quân an toàn, không có tổn thất. Trận đánh quyết liệt của ta làm địch chùn bước, không dám thường xuyên tổ chức các cuộc lùng sục vào căn cứ như trước nên việc đóng quân của ta thuận lợi cho đến ngày giải phóng hoàn toàn…
Đêm dần trôi bên ché rượu cần, những câu chuyện thời binh lửa tan loãng đi trên khuôn mặt đang ở tuổi “xưa nay hiếm”. Ông Phúc lại kể về chuyện làm giàu, về mô hình du lịch sinh thái về nguồn mà ông mở ra trong những năm đầu thiên niên kỷ. Ông bảo, mình là người lính từng vào sống ra chết trên chiến trường nên trên thương trường cũng không ngại thắng hay thua, chỉ sợ trong lòng mình không được bình yên. Từ những ngày chiến đấu trong rừng sâu, sống cùng đồng bào dân tộc thiểu số, ông đã ý thức được tầm quan trọng của rừng, cảm thông được với đời sống khó khăn của đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa. Ông trở lại với rừng, với đồng bào dân tộc để kết hợp hai yếu tố trên tạo nên một mô hình du lịch sinh thái đặc thù, một hướng mới cho du lịch Đà Lạt và đây cũng là loại hình du lịch hấp dẫn đối với du khách, mang tính cộng đồng bền vững về môi trường và lợi ích kinh tế, xã hội…
Một đêm rất đỗi bình yên mà tôi thấy lòng mình chợt chênh chao. Ở nơi rừng sâu nước độc, rừng nguyên sinh này, cuộc sống tiếp tục mở ra và thu lại nhiều lợi ích cho đồng bào Cơ Ho. Và họ-chủ nhân của những cánh rừng, của vùng nước Đạ Lạch (hồ nước của người Lạch-Đà Lạt ngày nay) luôn cùng hướng đến sự phát triển, hòa nhập cộng đồng bền vững, cộng sinh ngày một sâu sắc.
Ghi chép của LÝ HỮU LƯƠNG