Bài 4: Nguyễn Ngọc Ký nơi đất lửa
Ở Quảng Trị, có hàng nghìn người bị thương tật do tai nạn bom mìn nhưng từ trong tột cùng khổ đau, họ vẫn đứng lên, “trái tim còn đập, còn xây cuộc đời”. Em Hồ Văn Lai, học sinh Lớp 10B3, Trường THPT Lê Lợi (thành phố Đông Hà) là một tấm gương như thế…
Cửa Việt - ngày hè định mệnh
Buổi trưa nào cũng vậy, ở Trường THPT Lê Lợi, có một học sinh lặng lẽ chống nạng đến trường sớm hơn các bạn chừng 20 phút, từ từ ngồi xuống ôn bài nơi cửa lớp. Mất cánh tay và một con mắt bên phải, em phải khó khăn lắm mới lấy được kính và sách để đọc. Ở tuổi 20, Hồ Văn Lai mới học lớp 10 bởi vụ nổ kinh hoàng đã xé nát cuộc đời em 10 năm trước…
 |
Hồ Văn Lai bên góc học tập.
|
Ngày 19-6-2000, Lai vừa bước vào kỳ nghỉ hè ở quê, thị trấn Cửa Việt, huyện Gio Linh. Em mới 10 tuổi, cái tuổi còn quá nhỏ để biết rằng bến cảng bình yên tươi đẹp quê em một thời từng có hạm đội 7 của quân đội Mỹ hoạt động và dưới những bãi cát trắng mênh mang, biết bao đạn bom từng giội xuống. Mỗi lần nghỉ hè, mấy anh em họ hàng lại lang thang đi chơi trên những bãi cát trắng tuyệt đẹp, dưới hàng thông reo rì rào cùng gió biển. Bữa nay, Lai cùng mấy đứa em họ là Hồ Văn Tuấn cũng 10 tuổi như Lai, Hồ Văn Thuấn, 8 tuổi và Hồ Thị Vân 6 tuổi, em ruột Thuấn qua nhà bà ngoại Lai chơi. Từ thị trấn lên nhà bà đi qua bãi cát trắng rộng không có nhà cửa. Mấy đứa thích quá, chạy tung tăng, dùng que hất cát trêu đùa nhau. “Ầm!”, một tiếng nổ dữ dội như muốn xé toang trưa hè Cửa Việt. Lai thấy mắt tối sầm, đau rát khắp người, xung quanh đầy tiếng khóc… Mười năm đã trôi qua nhưng nhớ lại ngày hè kinh hoàng ấy, chị Bùi Thị Anh, mẹ của Thuấn vẫn nấc nghẹn: Vụ nổ (có lẽ là đầu đạn pháo) đã cướp đi của Lai hai chân, cánh tay phải, con mắt phải, một ngón tay trái, làm thương nặng mắt trái và nhiều vết thương khác trong người. Tuấn và Vân, con chị Anh và là em họ Lai chết ngay tại chỗ, chỉ có Thuấn may mắn hơn bị thương nhẹ. Vụ tai nạn gây chấn động cả huyện Gio Linh vì chưa bao giờ có một vụ tai nạn bom mìn rơi vào cùng một gia đình, cướp đi hai cháu bé và làm bị thương hai đứa.
Lai được đưa vào Bệnh viên đa khoa tỉnh Quảng Trị nhưng vết thương quá nặng, phải chuyển ngay vào Bệnh viên Trung ương Huế, nằm viện suốt 4 tháng trời. Khi về nhà, các bạn đã vào năm học mới, còn em vẫn trên giường bệnh. Không đi lại, mắt không nhìn rõ vì đau nhức, thị lực mắt trái còn lại chỉ gần 50%. Năm ấy Lai mới học hết lớp 5. Mấy năm trôi qua trong tủi buồn, đau đớn. Vết thương dần đã lành. Lai đã tập đi xe lắc, tập đi với nạng và chân giả, túc tắc đi lại trên con đường nhỏ gần nhà. Từ một cậu bé nhanh nhẹn, hiếu động với ước mơ trở thành chiến sĩ công an, Lai trở nên lầm lũi như một cái bóng lặng lẽ.
Đứng dậy
“Một buổi sáng! Không thấy Lai ở nhà, tôi hốt hoảng đi tìm. Tìm mãi không thấy con đâu. Tôi hốt hoảng đạp xe vừa đi vừa gọi. Tới cổng trường cấp 2, tôi nhìn thấy Lai đang ngồi trên xe lăn, mắt đăm đăm nhìn vào cổng trường. Nhìn thấy mẹ, Lai òa khóc: “Mẹ ơi! Con có đi học được không? Con có viết được không? Con có lên cấp 3 được không? Có vào đại học được không? Các bạn học cùng con sắp vào đại học cả rồi, mà con…”. Chị Sương mẹ Lai nhớ lại rằng chị chỉ biết ôm con vào lòng mà gật đầu nhưng khi ấy, chị không tin Lai có thể đi học trở lại được. Song chị không ngờ, Lai quyết tâm đi học thực sự. Em bỗng đổi khác bất ngờ. Sau ba mùa hè tuyệt vọng, Lai bắt đầu ngồi vào bàn tập viết những chữ cái đầu tiên. Tay phải mất, phải viết bằng tay trái, lại chỉ còn bốn ngón không lành lặn, vết thương làm 4 ngón tay dúm dó vào nhau. Lai phải đánh vật với từng con chữ. Một ngày, hai ngày, ba ngày… Những nét chữ nguệch ngoạc, những ngón tay đau nhức, nhất là ngón trỏ bị thương nặng cứ muốn rời ra. Nhưng Lai không nản chí. Mùa thu năm ấy, em trở lại trường, học lớp 6 với chiếc xe lắc trong khi các bạn cùng trang lứa đã vào lớp 11.
Lớp 6, lớp 7, lớp 8, rồi lớp 9… Không ai ngờ Lai có một sức vươn lên mạnh mẽ như vậy, em hoàn thành tốt mọi môn học (trừ môn thể chất) mà hầu như không hề có một sự ưu ái nào. Mùa hè năm ngoái, chị Sương vui sướng nghe con bày tỏ nguyện vọng muốn lên học cấp 3. Vui, nhưng lại đầy âu lo khi Lai không chọn trường bình thường mà chọn thi vào hẳn Trường THPT Lê Lợi, một trường điểm của thành phố Đông Hà với lý do đi học cho gần nhà hơn, nhiều thầy cô giỏi hơn. Không dừng lại ở đó, Lai chọn thi vào ban A, ban dành cho những học sinh khá, giỏi các môn tự nhiên. Thật bất ngờ, Lai thi được 33 điểm, trong khi điểm chuẩn chỉ lấy 17,5. Em gái Lai, kém em 4 tuổi, cũng thi cùng nhưng lực học không bằng anh, nên không chọn thi cùng trường.
Ba anh em gồm Lai, Liễu – em ruột Lai, Thuấn – em họ, cũng là nạn nhân vụ tai nạn năm nào giờ cùng lên Đông Hà học cấp 3, cùng trọ học trong một gian phòng nhỏ hẹp và oi bức. Lai cơ thể thương tật, đi lại khó khăn, mỗi khi trở trời, các vết thương đau nhức nhưng em vẫn luôn thể hiện vai trò “anh cả”. Lai tự làm lấy mọi việc tắm, giặt, phơi quần áo và “chỉ đạo” các em sinh hoạt sao cho thật tiết kiệm. Bữa cơm thường chỉ có rau và đậu, thi thoảng mới có thịt, cá, ba anh em mà chỉ mua chừng 10.000 đến 15.000 đồng tiền ăn mỗi ngày. Hằng tuần, Thuấn và Liễu đạp xe về nhà lấy thêm gạo. Tiền thuê nhà hết 500.000 đồng rồi! Lai biết ba mẹ còn nghèo, lại phải nuôi 2 anh chị đang học đại học, thêm 2 con học cấp 3, xiết bao vất vả.
Cô Trương Thị Thu Hiền, cô giáo chủ nhiệm của Lai xúc động kể về em: Ban đầu, cô cứ nghĩ và đối xử với Lai như với một học sinh khuyết tật. Nhưng càng ngày, cô càng hiểu và cảm phục nghị lực cũng như nhiều phẩm chất tốt đẹp của cậu học trò đặc biệt này. Thi đỗ ban A, nhưng vì sức khỏe Lai đã chuyển xuống ban B học tập. Mắt kém, đi lại và chép bài khó khăn nhưng em vẫn theo kịp bạn bè khi ghi bài. Mọi môn thi, kiểm tra, Lai đều học và thi bình đẳng như các bạn khác, không hề có sự “châm chước”. Chỉ có một sự “ưu tiên” duy nhất của nhà trường: Thầy hiệu trưởng biết Lai đi lại khó khăn, đã bố trí lớp em học luôn ở tầng 1 và gần khu nhà vệ sinh. Điều bất ngờ nhất là Lai không chỉ theo kịp bạn bè mà còn học tốt hơn bạn bè. Hiện em đạt điểm số bình quân các môn học là 7,3 điểm, là học sinh có điểm số cao nhất lớp.
Một ước mơ không chỉ cho riêng mình
Thầy Nguyễn Đăng Hậu, Hiệu trưởng Trường THPT Lê Lợi cho biết: Lai là học sinh khuyết tật vì bom mìn duy nhất của nhà trường nhưng em không hề tự ti mà tràn đầy nghị lực, luôn quan tâm giúp đỡ người khác. Em Nguyễn Phước Bảo Khanh, học cùng lớp vừa chuyển từ Đà Nẵng ra, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có lúc chán nản, muốn bỏ học. Lúc này, chính Lai đã chủ động đến bên Khanh, động viên bạn vươn lên. Trong những chương trình truyền thông phòng tránh tai nạn bom mìn ở nhà trường, Lai luôn có mặt để nói với bạn bè những điều cần nói từ chính câu chuyện của mình. Lai cũng là người đã đoạt giải nhất trong cuộc thi vẽ tranh về đề tài phòng chống tai nạn bom mìn do tổ chức Cây hòa bình Việt Nam tổ chức.
 |
Ước mơ vào đại học. |
Lai cho biết, điều em mong mỏi nhất là làm sao có được nhiều sự hỗ trợ hơn từ xã hội cho những nạn nhân như em. Ở Quảng Trị, còn có hơn 400 trẻ em bị thương tật do bom mìn, nếu tính cả số thanh niên thì con số phải lên tới hàng nghìn. Vụ tai nạn mười năm trước đã làm gia đình em khánh kiệt vì phải chữa chạy cho em, dù đã nhận được những hỗ trợ đáng quý của các tổ chức. Em được mọi người biết đến và giúp đỡ một phần nhờ báo chí. Nhưng vẫn còn bao trẻ em và thanh niên thiệt thòi vì bom mìn như Thuấn bị thương, như Tuấn, như Vân - em họ em đã chết và biết bao người khác thì không ai biết đến, không nhận được bất kỳ một sự hỗ trợ nào… Nghe tâm sự của Lai, nhớ lại cảnh 3 anh em bên bữa ăn trị giá mươi nghìn đồng trong căn phòng trọ oi bức, tôi thầm nghĩ, giá như ở Quảng Trị, có một quỹ hỗ trợ cho các nạn nhân bom mìn, nhất là một quỹ hỗ trợ riêng cho các trẻ em là nạn nhân bom mìn thì tốt biết bao nhiêu? Tôi lại chợt nhớ ông Hoàng Văn Thông, Phó chủ nhiệm Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng Trị, có lần cũng từng mong mỏi: “Cứ mỗi khi có tai nạn bom mìn, chúng tôi lại phải đi gõ cửa, xin các cơ quan giúp đỡ. Giá như Chính phủ lập một quỹ hỗ trợ cho các em nhỏ là nạn nhân tai nạn bom mìn thì tốt biết bao?”.
Xóm trọ của những học sinh nghèo khi tôi đến, đêm đã về khuya. Ngọn đèn bàn, chiếc máy vi tính trong phòng Lai vẫn sáng. Lai là học sinh duy nhất trong khu trọ có máy tính. Em không ngần ngại bày tỏ ước mơ sẽ được theo ngành công nghệ thông tin khi vào đại học với một mong mỏi bình dị: Có được một công việc để tự nuôi sống bản thân. Còn nguyện vọng trước mắt, em chỉ muốn được chữa trị lại con mắt còn lại để học tốt hơn.
Dẫu mọi so sánh là khập khiễng nhưng tôi xin được gọi Lai là một “Nguyễn Ngọc Ký ở Quảng Trị” với mong muốn em sẽ tiếp bước thầy, tiếp tục là tấm gương tuyệt đẹp cho những số phận thiệt thòi vẫn khao khát vươn tới!
“Nạn nhân bom mìn thường bị ảnh hưởng nặng nề về tâm lý, có người hoảng sợ đến điên loạn. Họ dễ bị xa lánh, cô đơn và kiệt quệ về kinh tế. Nếu không nỗ lực vươn lên, họ sẽ trở thành gánh nặng suốt đời cho gia đình và xã hội. Gần 1/3 gia đình có nạn nhân sống sót hiện đang sống với mức 5.000 đồng/ngày hoặc ít hơn. Nguy cơ thất nghiệp đối với họ cao gấp 3,5 lần so với khi chưa gặp tai nạn”.
(Trích tài liệu của Trung tâm Hành động khắc phục hậu quả bom mìn - Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội).
|
Tại cuộc giao lưu “Khắc phục hậu quả bom mìn vì bình yên cuộc sống”, em Hồ Văn Lai được Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tặng học bổng trị giá 5 triệu đồng. Em xúc động nói: “Ở tỉnh Quảng Trị, còn có hơn 400 trẻ em có hoàn cảnh như em, nếu tính cả thanh niên thì con số phải lên tới hàng nghìn. Phần đông trong số họ không nhận được bất kỳ một sự hỗ trợ nào. Rất cần có một quỹ hỗ trợ cho các nạn nhân bom mìn, nhất là một quỹ hỗ trợ riêng cho các trẻ em là nạn nhân bom mìn …”.
|
Ghi chép của NGUYỄN VĂN MINH
Về miền đất sống bên… “thần Chết” (bài 3)
Về miền đất sống bên… “thần Chết” (bài 2)
Về miền đất sống bên… “thần Chết” (bài 1)
Bài 5: Cuộc chiến đấu dũng cảm và trí tuệ của người lính