LTS: Sau hai vệt bài về Di sản văn hóa dân tộc đăng trên Báo Quân đội nhân dân (“Làm chưa hay như nói” đăng từ ngày 29-6 đến 2-7-2009 và “Lang thang trên hoang tàn di sản” đăng ngày 17, 18, 19-11-2009”), chúng tôi đã nhận được rất nhiều ý kiến phản hồi của bạn đọc trên mọi miền đất nước. Xin trân trọng cảm ơn các bạn đã nặng lòng với ông bà, tổ tiên mình.

Tuy vậy, một điều đáng tiếc là ngành chủ quản là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch cũng như tất cả các địa phương có di sản chúng tôi đề cập đến trong bài viết: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Khánh Hòa, Thanh Hóa... đều không có hồi âm từ phía chính quyền.

Báo chí là diễn đàn của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Hồi âm báo chí đã được pháp luật quy định. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng yêu cầu: khi báo chí phê bình, hay khen ngợi, cần phải hồi âm, nói rõ đúng, sai và sửa chữa. Không được giữ thái độ im lặng “Bưng mắt bắt chim”, “Giấu bệnh sợ thuốc”.

Hi vọng, hai bài của bạn đọc Nguyên Huân, Mai Tuyết dưới đây sẽ được nhân dân và chính quyền quan tâm.  

Bài 1: Phế tích chùa Đại Lãm

 

Chùa Đại Lãm giờ chỉ là ngôi nhà cấp 4.

Chùa Đại Lãm được mệnh danh là một trong những quần thể kiến trúc độc đáo, bề thế vào bậc nhất của Nhà Lý. Chùa tọa lạc trên đỉnh núi Dạm, tức núi Đại Lãm, thuộc thôn Tự, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Được bao bọc xung quanh bởi những cánh đồng bạt ngàn trù phú thẳng cánh cò bay, bên cạnh là dòng sông Đuống hiền hòa xen kẽ các ao, đầm tạo nên cho chùa Đại Lãm một vị thế tuyệt đẹp. Trong lịch sử, chùa này từng là công trình kiến trúc tiêu biểu của miền Bắc. Tuy nhiên, do thiên nhiên và chiến tranh khắc nghiệt tàn phá, chùa Đại Lãm hiện chỉ còn lại vùng phế tích hoang tàn.

 

Vang bóng một thời

Chùa Đại Lãm còn được nhân dân gọi bằng nhiều cái tên khác nhau như: chùa Dạm, Thần Quang Tự, Cảnh Long Đồng Khánh, chùa Tấm Cám, chùa Bà Tấm, chùa Cao, chùa Trăm Gian... Theo Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến chương loại chí có ghi: Năm Quảng Hựu thứ 1 (1085) Thái hậu Ỷ Lan đi chơi khi qua nơi này thấy cảnh núi sông tuyệt đẹp nên có ý muốn xây dựng tháp ở đó. Đến năm Quảng Hựu thứ 2 (1086), vua Lý Nhân Tông cho xây dựng chùa trên núi Dạm. Chùa được triều đình Nhà Lý cho xây dựng với quy mô 8.000m2 trong suốt 9 năm liền. Năm 1087, vua đến thăm chùa, thết yến bầy tôi và làm bài thơ “Lãm Sơn dạ yến”. Năm 1094, chùa làm xong, vua đến thăm và ban tên chữ cho chùa và đến năm 1105 cho xây dựng 3 cây tháp đá ở chùa Đại Lãm. Việc xây dựng có quy mô đồ sộ biểu hiện lòng tự tin đối với cơ đồ độc lập của Nhà nước, mặt khác thể hiện sự đề cao Phật giáo của nước ta lúc bấy giờ. 

Sự bề thế của chùa Đại Lãm vẫn còn được dân gian lưu truyền cho tới ngày nay qua câu ca dao: Mười lăm trăng náu/Mười sáu trăng treo/Mười bảy phẩy giường chiếu/Mười tám đóng cửa chùa Dạm.

Câu ca dao trên có nghĩa là cứ sau ngày rằm người ta đóng cửa chùa, bắt đầu từ xẩm tối đến lúc trăng lên cao mới đóng hết tất cả các cửa. Ngôi chùa xưa có quy mô kiến trúc to lớn, với 5 lớp nền giật cấp bám lấy độ cao của núi Dạm. Các lớp nền đều được kè đá tảng lớn để chống xói lở. Vách đá của các lớp nền cao từ 5 đến 6m, mỗi viên đá rộng 0,50 - 0,60m. Nối các tầng nền với nhau là các bậc thềm lát đá tạo thành một lối đi rất đẹp. Ở mỗi tầng nền được lát gạch ngói thời Lý với hoa văn hình rồng, phượng, sen dây, cúc dây; những chân cột bằng đá (0,75m x 0,75m) chạm nổi những cánh sen rất tinh xảo, điêu luyện. Tại tầng nền thứ hai từ dưới lên có 2 khối đất hình nấm nằm đối diện nhau, đều được kè đá chạm văn hình sóng nước nhô cao (thủy ba). Khi hoàn thành, truyền thuyết kể rằng chùa Đại Lãm cần tới bảy gia đình sống dưới chân núi thay nhau chuyên việc đóng mở cửa chùa hằng ngày mà vẫn không xong.

 Phế tích ngày nay

Với kiến trúc, quy mô bề thế, đồ sộ như vậy chúng ta có thể khẳng định được tầm vóc và sự quan trọng của ngôi chùa vào thời bấy giờ. Trải qua hàng trăm năm thăng trầm lịch sử, nắng mưa và sự tàn phá của con người, chùa xưa không còn nữa, nay chỉ còn lại một vùng phế tích hoang tàn. Men theo con đường mòn độc đạo bên rìa dãy núi Dạm chúng tôi lần đến chùa Đại Lãm. Năm nền bề thế của ngôi chùa hiện ra thật quy mô, hoành tráng. Tiếc rằng, 5 nền đó chỉ còn sót lại những nền móng bằng đá phiến, một tấm bia rùa, một cây cột đá và vô số gạch, ngói bị cây cỏ bao trùm. Cây cột đá, nằm ở tầng thứ 2 được chạm khắc hình rồng phượng tinh xảo biểu tượng cho Linga (Tín ngưỡng phồn thực dân gian có nguồn gốc từ văn hóa Chăm-pa) ước vọng mưa thuận gió hòa, vạn vật phồn thịnh, sinh sôi nảy nở của cư dân Việt chuyên canh lúa nước đã bị vỡ mất một nửa trên. “Do bị sét đánh nên phần trên của cột đá bị vỡ, từ đó đến nay vẫn chưa có kinh phí để phục dựng”- Bà Nguyễn Thị Thập, người được cắt cử trông coi chùa Đại Lãm cho biết.

Tại phần nền thứ 3 và thứ 4 của ngôi chùa người dân xây tạm hai gian thờ xập xệ. Bên trong các mảng tường đã nứt nẻ dài hàng mét. Các thanh xà gỗ và mái ngói chùa bị mối mọt, mục nát có nguy cơ đổ sụp xuống bất cứ khi nào. Giếng bà Tấm, tương truyền là nơi bà Tấm nuôi bống đã bị đất cát bồi lấp, cỏ rêu phủ kín. Riêng nền 1 và nền 5 của ngôi chùa gần như biến mất hoàn toàn, chỉ còn trơ lại nền đất. Ông Ngô Thế Tài (77 tuổi) sống dưới chân chùa Đại Lãm từ nhỏ cho biết: Hiện nay chùa Đại Lãm còn được bảo lưu nhiều giá trị văn hóa phi vật thể như truyền thuyết, giai thoại, thơ ca hò vè, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội. Trong đó nổi lên là tín ngưỡng và lễ hội của chùa Đại Lãm. Ngày mùng 8 tháng 9 (âm lịch), các làng quanh chùa tưng bừng mở hội và có tục rước kiệu Thành Hoàng làng lên chùa yết kiến Thánh Mẫu (vua bà Ỷ Lan). Đám rước kiệu Thánh của các làng có đầy đủ cờ, kiệu, tàn, lọng, siêu đao, bát bửu, trống, chiêng. Khi kiệu các làng lên đến chùa, trong chùa quan viên tế lễ Thánh Mẫu và mâm tế bao giờ cũng phải có bánh chưng, bánh giầy mỗi loại 10 chiếc; ngoài sân chùa diễn ra các trò chơi dân gian: tuồng, chèo, đu cây, vật, đi cà kheo, cờ người, cờ tướng, thi dệt vải, thi nấu cơm thu hút đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương về trảy hội. Cũng bởi hàng chục năm nay chùa không có vị sư nào chủ trì nên rất vắng khách thập phương về hành hương, đây chính là một trong những nguyên nhân khiến chùa lâm vào cảnh “bi đát” như ngày nay.

Nhằm giữ lại chứng tích lịch sử quan trọng này, ngày 13-1-1964 Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) đã ra quyết định số 29 QĐ/BT công nhận chùa Đại Lãm là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Tuy nhiên từ đó đến nay ngôi chùa vẫn đang từng ngày phải “gồng mình” chống chọi với sự tàn phá của thiên nhiên và con người. Đứng trước phế tích chùa Đại Lãm, trưởng thôn Tự, ông Ngô Văn Xuất không giấu được nỗi buồn: “Những đồng tiền ít ỏi do các nhà sư và nhân dân quanh vùng quyên góp được hàng năm chỉ đủ để chắp vá những viên ngói, thanh gỗ mục nát. Xét về lâu dài, nếu không được sự đầu tư tôn tạo của nhà nước, chùa Đại Lãm sẽ đứng trước nguy cơ biến mất”.

NGUYÊN HUÂN – MAI TUYẾT

 

Bài 2: Lạnh lẽo quê mẹ Nhà Lý