IV. Những người sống mãi
Chúng tôi tìm thấy một trận địa cũ bỏ từ lâu, nhìn ra con tàu bị máy bay Mỹ đánh lật nghiêng ngày 5-8-1964 trong lần đầu tiên máy bay Mỹ đánh Vinh, Bến Thủy và cả miền Bắc. Lần đó chúng đánh kho xăng xã Hưng Hòa liền kề xã Hưng Thủy và đánh tàn bạo cảng Bến Thủy còn nhỏ bé.
Anh Toại kiếm đâu được con gà mái to và cả cái chuồng cũ đặt nuôi đầu lán. Những lúc vắng máy bay, hay sau trận đánh anh lại bắt con gà mái ra khỏi chuồng – chị gà mái sắp đẻ, mào đỏ chót “Coóc … coóc …” gọi trống. Anh nghiêng đầu nhìn nó. Nó nghiêng đầu nhìn lại anh. Anh y tá có tên Huân, người Hải Phòng – một tay chơi cờ tướng cự phách, cao lòng khòng, vầng trán rộng, nghiêng xuống phía anh Toại đùa nhả: “Đại đội trưởng nhớ vợ con ngoài Hà Nội, nuôi gà mái!”. Anh Toại hơi ngượng: “Tớ nuôi cho nó đẻ, vào làng nhờ anh nuôi xin trống cho ấp nở tớ nuôi tất. Tớ thích nuôi gà, Khi nào hết chiến tranh về quê tớ nuôi hẳn một đồi gà. Anh em cũ đến chơi, tớ cho chén thịt gà đồi”.
Cuộc chiến đấu ngày càng khốc liệt. Ngày 6-9-1968, đại đội 10 ở bờ nam, giữa trưa, bị máy bay Mỹ ném vào trận địa sáu quả bom 500 bảng Anh (250kg). Cả sở chỉ huy mất sạch, mất cả mấy khẩu đội pháo.
 |
Vót cọc tiêu dẫn xe qua Truông Bồn (1968) ở Đại đội TNXP |
C8 chỉ còn đủ số quân đánh hai khẩu pháo. Trận địa cảng của chúng tôi nằm trên vệt máy bay A6 ban ngày và ban đêm rải bom đánh bến phà. Tôi đo trên bản đồ, trận địa chỉ cách phà theo đường chim bay khoảng 400 mét. Có hai khẩu pháo nhép, đại đội trưởng Toại vẫn đánh quyết liệt các tốp máy bay bổ nhào vào bến phà. Bị đánh vỗ mặt, cắt các đường bổ nhào, chúng điên cuồng đánh trận địa đại đội tôi. Trong các trận đánh quá chênh lệch như vậy, dân quân Hưng Thủy chạy băng qua con đường nhựa, băng qua cánh đồng vào trận địa hiệp đồng chiến đấu (từ ngữ này rất thông dụng vào thời kỳ đó). Thêm người, khôi phục thêm nòng pháo. Đứng ở sở chỉ huy bên cạnh anh Toại, tôi thấy trên các mâm pháo dân quân đông hơn bộ đội. Vào một đêm giao ca trực trinh sát thông tin ở sở chỉ huy đại đội xong, tôi rủ Nguyễn Xuân Oanh, chiến sĩ thông tin ra căn hầm chữ A giáp bến phà ba (bến dự bị) tranh thủ ngủ một lúc. Chúng tôi đã sửa lại nền hầm và đặt vào đó một tấm phản. Hai chúng tôi nằm úp thìa, chuyện rì rầm. Oanh nói:
- Hơn ba tháng tôi chưa gửi thư về nhà, chiến tranh ác liệt quá, mình nghĩ không gửi thư để các cụ quen dần sự vắng mặt của mình. Để nếu xảy ra tình huống xấu nhất bố mẹ mình đỡ đau đớn chăng!
Tôi xiết mạnh tấm lưng rắn chắc của Oanh nói hai người đủ nghe:
- Không, không làm như thế. Chúng mình phải sống! Nếu còn sống sau này mình nhất định sẽ viết văn, viết sách về thời kỳ ghê gớm này.
Thiếp đi mê mệt, rồi giật mình vì đất bị dồi lên hơi nóng rát phả vào hầm. Thế rồi trong hầm tối đen, ngạt thở. Căn hầm bị lấp mất cửa. Chúng tôi bị ngất đi không biết gì, cho tới khi các o dân quân khiêng vào bếp đơn vị đặt trong nhà mẹ Thanh. Mẹ vừa thay áo cho tôi vừa khóc:
- Con ơi, nói anh em vô trong ni mà ở ít ngày. Trận địa còn hai khẩu pháo nhép, hắn đánh ngày đêm như rứa, chết hết mất thôi!!!
Nói vậy nhưng mẹ lại giục o Đào (con gái) nấu cháo. Mẹ bảo mang hộp thịt ông Sỹ Quế tặng hôm đi hội nghị bỏ vào nồi cháo cho hai đứa tôi ăn cho lại sức, ngày mai, ngày mốt khỏe còn về trực chiến!
Mẹ Thanh kể lại cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện… những ngày này, sau bốn mươi năm trời tôi vẫn nhớ như mới nghe đây thôi. Tôi chưa viết ở quyển sách nào hoặc bài viết nào trước đây của tôi… Giọng Vinh âm ấm, nằng nặng, đều đều tỏa khắp gian nhà trong ánh sáng vàng của ngọn đèn phòng không.
Câu chuyện thứ nhất:
Mỹ hắn rình bắn pháo to, bắn rót vào cửa hang lớn phía sau nhà máy điện, như trộm rình sau vách nhà. Một tiểu đội nữ ra vào coi hàng chờ chở qua sông Lam. Từ trên trời, Mỹ hắn đã dò ra cái cửa hang đó. Hắn cho mấy cái A6 bay thấp, thẳng từ cửa Hội vô, tung xuống mấy chùm bom ngạt, bom hơi. Cả tiểu đội không đứa nào sống sót. Chết cụm vào với nhau sau cửa hang. Quần áo bay hết. Hết bom, nghe tiếng khóc, tiếng kêu, gọi mẹ, chạy tới thì họ đã xếp bọn hắn nằm liền kề nhau. Mới kịp đắp cho mỗi đứa cái vỉ buồm lót vai vác hàng. Mẹ mở vỉ buồm ra, con ơi, đau đớn quá. Con ơi, mẹ già rồi cho mẹ khóc, bọn hắn cả 9 đứa đều là trinh nữ. Bọn hắn nằm như các trinh nữ ngủ, máu tươi vẫn rỉ ra ở miệng.
Câu chuyện thứ hai:
Hồi đầu Mỹ đánh Vinh mình, bộ đội phòng không có Trung đoàn 280 (đoàn Hồng Lĩnh). Cả thành phố gọi là đoàn Phòng Thành, dân quân chưa biết nhuộm áo phòng không (màu xanh lá cây) mặc áo màu chạy ra đứng chật công sự. Máy bay hắn nhìn thấy, lao xuống bắn rốc-két. Các o vác đạn đứng ở cửa hầm, trúng mảnh bom ngã xuống chật cả lối đi.
Năm 1965, 1966 máy bay Mỹ nhằm đánh vào bến phà, nhà máy điện, nhà máy gỗ, bến cảng, cửa hàng ăn uống. Trung đoàn 214 (đoàn Sông Gianh) cũng được gọi là đoàn Phòng Thành, mở đường phía sau núi Quyết đưa Đại đội 6 lên ngọn núi 102. Máy bay Mỹ đánh, ta chọi lại mấy tiếng đồng hồ. Pháo hỏng, Người chết. Dân quân Hưng Thủy, Hưng Dũng, tự vệ khu phố 5 nối nhau theo đường mòn chạy lên cứu bộ đội. Máy bay hắn bâu vào bắn các dòng người. Con ơi! Người chết, máu chảy theo đường mòn xuống tận chân núi. Con ơi! Không ai dám đến xem có bao nhiêu người chạy ngược núi, trúng mảnh rốc-két, bom bi rồi cứ lăn xuống. Đáng ra mẹ cũng chết rồi nếu không được một chú bộ đội phòng không cõng từ chân núi Quyết về nằm chỗ cái phản con đang nằm đây.
Câu chuyện thứ ba:
Mới đây thôi, ca nô cảm tử phóng luồng phía trên bến bị bom từ trường nổ hất vào bờ đè lên hai quả bom từ trường nằm sát nhau chỗ mỏm nứt ngày 5-8-1964 ta đặt hai khẩu 14 ly 5. Lái vẫn ngồi trên ca bin cầm vô lăng không xuống. Sáng kiến nối dây chão dài hè nhau kéo không chuyển. Phải giữ ca nô, giữ cho người lái sống còn phá tiếp bom từ trường. Công nhân, bộ đội, thanh niên xung phong lội ào xuống hò nhau đẩy ngược ca nô ra sông. Ca nô nổ máy lao ra xa. Còn tốp người đẩy chưa kịp lên, hai quả bom kích nhau nổ. Cả tốp bay hết không còn ai.
Câu chuyện thứ tư
… … … … … …
Câu chuyện thứ năm
… … … … … …
Những câu chuyện mẹ Thanh kể cho chúng tôi nghe, theo giọng của mẹ, giọng một bà mẹ Vinh của thời ấy đã cho chúng tôi thêm sức sống để trở về trận địa.
Đã vào những tháng cuối cùng cuộc ném bom hạn chế của Mỹ. Máy bay Mỹ ném bom phà Phương Tích và cầu Cấm ngăn lực lượng vận tải sang quốc lộ 15, vượt qua Truông Bồn đi vào Nam. Trên đất Nghệ An, các trọng điểm lửa bom và máu: Bến Thủy, Nam Đàn, Cầu Cấm, Phương Tích. Cửa mở cho cuộc tổng công kích vận tải vẫn là Truông Bồn. Các đoàn xe chở nặng hàng vượt đèo Truông Bồn, tăng tốc độ về Vinh rồi tản về các làng Hưng Dũng, Hưng Đông, Hưng Bình… ém ở đó chờ đêm vượt phà. Máy bay Mỹ không giảm đánh phà. Chúng đánh bằng các thủ đoạn thâm độc, cho từng tốp A7 hai chiếc bay dọc sông Lam, sông La lùng tìm nơi ta giấu phà và nơi ở của công nhân, điều bến. Những tốp A7 bay lượn lờ hết sức nguy hiểm. Cơ quan tham mưu, trinh sát gọi cách bay này là bay tuần thám. Chúng đánh “săm” nơi giấu xe, chôn hàng. Ngày nào cũng có các đám cháy xe, lửa, khói xăng bốc cao. Máy bay Mỹ lại lao tới ném bom.
Trung đoàn điều Đại đội 6 pháo 57 ly về khu nhà máy gỗ cạnh Quán Gió, áp sát phà. Trận địa này đánh chặn đường máy bay bổ nhào dọc theo núi Quyết ném bom phà Bến Thủy. Đại đội 6 cùng Đại đội 8 thành một cụm đánh quyết liệt bảo vệ phà, bảo đảm đợt tổng công kích vận tải thắng lợi.
Trời miền Trung sang mùa mưa, mây thấp. Tốp A7 bay chui mây. Lúc ấy phía Đông bỗng xuất hiện các tốp F4 và A4. Những chiếc F4 được cải tiến hết sức nguy hiểm. Khi đánh vào trận địa, hai chiếc nghiêng cánh quan sát chuẩn bị bổ nhào. Trận địa Đại đội 6 vẫn đang im ắng. Anh Toại hô lớn:
- Trinh sát quản chặt tốp F4. Chú ý, pháo bắn chiếc F4 bay đầu.
Chiếc F4 bay đầu bổ nhào ném bom bến phà. C6 nổ súng. Chiếc thứ hai lượn một vòng. Nó phát hiện ra pháo 57 vào chốt sâu bảo vệ phà. Chiếc máy bay bổ nhào ngay. Anh Toại cho bắn một điểm xạ. C8 ở trận địa cảng. Đạn C8 xỉa vào trước mặt, nó nghiêng cánh lần nữa như làm động tác giả không lao xuống C8, bất ngờ nó lao thẳng xuống Đại đội 6. Chùm bom rời máy bay nổ trên không ở độ cao thấp ngay trên đầu trận địa. Bom nổ trên không. Cả một khối lửa chói lòa. Những nòng pháo im phắc. Đại đội 6 bị nặng rồi.
Đến tối, anh Toại cho tôi vào nhà mẹ Thanh hỏi thêm tình hình Đại đội 6. Mẹ ngồi ở cửa hầm, người như quắt lại, mái tóc rối bời. Vừa nhìn thấy tôi, mẹ bật khóc:
- Con ơi, đau thương lắm con ơi. Anh em mình bị nhiều lắm. Bom hắn nổ trên không xỉa mảnh xuống, anh em chết không toàn thây. Bom hắn chém người như chặt chuối. Anh em chính sách trung đoàn có vài người,… phải chờ các mẹ, các chị trong Hưng Thủy ta chạy đến. Mẹ thắp hương. Các bà, các chị thắp hương. Máu trong hầm pháo ngập mắt cá chân. Con ơi, đưa về trụ sở ủy ban, máu rải thành vệt từ trận địa vô làng. Con ơi, bên Xuân An (Nam bến phà) người ta ghi giỗ trận ngày 6-9, C10. Hưng Thuỷ, Hưng Dũng ta cũng phải làm giỗ trận phải không con?
Đêm ấy, Đại đội 8 chúng tôi được lệnh qua phà sang bờ phía nam Bến Thủy. Dỡ trận địa xong tất cả chúng tôi bảo nhau: Ai có quần áo mới cất trong đáy hòm đạn lấy ra mặc vào người. Cuộc chiến đấu của trung đoàn tôi bảo vệ phà rất ác liệt, nhưng với chúng tôi, anh em phà còn chịu ác liệt hơn, cái chết rình rập các anh không phải là từng ngày mà là từng giây, từng phút. Chúng tôi có chung ý nghĩ, nếu hy sinh khi qua phà cũng phải cho đàng hoàng, quần áo tươm tất.
Sáng sớm ở trận địa mới, nhận thông báo của trên: Đêm 31-10, rạng sáng ngày 1-11-1968, máy bay Mỹ đánh phá đèo Truông Bồn. Nhiều tốp, nhiều máy bay ném bom mặt đường. Đại đội thanh niên xung phong 117 có một tiểu đội gồm 11 cô gái. Tất cả số chị em này đều đã nhận giấy đi học ngoài Hà Nội. Chờ sáng ra đón xe đi. Máy bay Mỹ bắn phá đường đèo, tất cả họ đều ra cứu xe, cứu đường và tất cả đã hy sinh.
Cậu thông tin òa lên khóc. Trong lính trinh sát cũng có một cậu khóc. Mấy pháo thủ chạy lên hầm chỉ huy, họ cũng khóc!
- Đại đội trưởng ơi, anh ơi, các o ấy là người yêu của chúng em. Hồi tháng 6 rời Truông Bồn chúng em hẹn gặp nhau ở Vinh. Chúng em vẫn gửi thư cho nhau.
Anh Toại động viên:
- Anh em bình tĩnh. Lúc nữa sẽ biết rõ hơn.
Tôi nhìn các bạn, đồng đội tôi. Họ là những người lính dày dạn và họ cũng là những người yêu chung thủy.
(Kỳ cuối: Lời kết)
Đại tá – Nhà văn ĐÀO THẮNG (Nguyên chiến sĩ Đoàn pháo cao xạ Đống Đa)
Từ Truông Bồn đến Vinh-Bến Thủy (phần 3)
Từ Truông Bồn đến Vinh-Bến Thủy (phần 2)
Từ Truông Bồn đến Vinh-Bến Thủy (phần 1)