III. Bảo vệ Bến Thủy thông suốt

Những ai từng sống, chiến đấu ở Vinh-Bến Thủy thời kỳ Mỹ ném bom hạn chế năm 1968 hoặc đã ở lại với Vinh trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ đều thấy rõ một điều: Giữ cho bến phà Bến Thủy thông suốt liên tục là sự viển vông hão huyền. Quân Mỹ quyết bằng mọi cách, mọi giá đánh tắc con đường xuyên Bắc-Nam ở địa điểm chiến lược này. Trọng điểm vận chuyển chiến lược này còn có ý nghĩa chính trị vô cùng quan trọng: Đây là một biểu tượng của Xô- viết Nghệ-Tĩnh 1930-1931, là quê Bác, Chủ tịch Hồ Chí Minh mà cả thế giới vào lúc đó vang dội tiếng hô: “Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh”. Đây là vùng đất thiêng liêng của cách mạng và của dân tộc.

Mỹ quyết gây tắc phà. Ta quyết giữ cho thông phà. Lúc này phà thông, lúc sau máy bay Mỹ ném bom có thể gây tắc. Ta phải bằng mọi cách thông suốt cho con phà vận hành nối bờ Bắc bờ Nam sông Lam.

Mỹ bắt đầu rải bom từ trường xuống bến phà và khu vực có các trận địa của trung đoàn thuộc địa phận các xã Hưng Thủy, Hưng Dũng. Đêm máy bay Mỹ bay qua khu vực, lẫn trong tiếng động cơ, những đôi tai tinh tường của trinh sát chợt nghe thấy tiếng rèo… rèo… rèo… kéo dài, rồi tiếng những vật rất nặng tiếp đất thịch… thịch… thịch…! Đất rung nhẹ. Chưa thấy tiếng nổ. Trực ban tác chiến, trực ban trinh sát trung đoàn thông báo: Mỹ dùng thủ đoạn ném bom từ trường gây tắc phà và khống chế các trận địa ta. Đơn vị nhắc anh em có việc ra ngoài bỏ lại nhà các vật có kim loại: Bút, đồng hồ, dao con, kim khâu… Kiểm tra trận địa và khu vực phụ cận xem có bom từ trường không, báo cáo về tác chiến trung đoàn.

Lực lượng Cảnh sát PCCC Công an Nghệ An, trực tiếp dập tắt vụ cháy tàu Đoàn Kết bị máy bay Mỹ bắn phá tại Bến Thuỷ năm 1964 (ảnh nghean.gov.vn)

Sáng sớm, tôi mặc áo may ô cổ vuông, quần đùi “bà bô” đi ra phía ngoài xóm Đình, qua trận địa C3 đã cơ động sau trận đánh đầu chiến dịch (ngày 11 tháng 7 năm 1968). Đứng bên cạnh hầm pháo khẩu đội 3 (cả khẩu đội bị thương vong trận ngày 11 tháng 7), tôi đưa mắt nhìn theo con đường nhựa ra phía cảng Bến Thủy. Trên các thửa ruộng hai bên đường, lúa hè thu đã thu hoạch, bom từ trường ghim chôm nhổm trên bờ ngăn và cả ở dưới ruộng. Tôi chợn người khi thấy mấy o dân quân đang “cò cưa” một sợi dây sắt dài. Họ cúi lom khom bên bờ đất cao. Một cái cục to bắt sáng chạy đi chạy lại bên quả bom từ trường như là kiểu nhử mồi? Một anh đứng tuổi đứng ở phía xa chỉ tay quát tôi:

- Anh kia ngó cái chi? Vô hầm pháo ngay! Bom nổ mất xác bây chừ!

Tôi chột dạ, hóa ra các cô đang phá bom từ trường. Chợt một tiếng nổ giật lên. Đất, bùn phụt lên trời, luồng khói đen cuộn lên. Các o nằm dán xuống bờ ruộng cao làm vật che đỡ. Vài cục đất quăng lên tận chỗ tôi. Mặc kệ đất và khói bụi, tôi chạy đến gần các o nhìn cho tỏ cái cục kim loại. Hóa ra đó là cục nam châm hình chữ U được buộc vào hai đầu dây thừng. Một kiểu phá bom thật kỳ lạ, sự thô sơ vô cùng đã đánh sập sự tinh vi vô cùng. Hai o đến gần tôi chào trêu:

- Anh có thấy sợ khi bọn em xoa đầu Giôn-xơn ban nãy không?

Tôi cười to:

- Xoa đầu Giôn-xơn chứ không xoa đầu các anh là được rồi!

Tạm biệt các o, tôi chưa về ngay trận địa Cây Dừa, đi tiếp vào mấy trận địa khu giữa làng Hưng Thủy là những trận địa cũ để các đơn vị cơ động khi cần thiết. Bom từ trường máy bay Mỹ thả xuống đây khá nhiều. Tôi đếm : Một, hai, ba, bốn… quả thứ tự cắm xuống cạnh bờ hào giao thông. Bốn cánh bom xòe ra úp xuống mặt đất giống như cái ô giết người. Cái cánh trên miệng hào bị vặn vỏ đỗ, sắp gãy rồi, tại vết gãy, đuya-ra trắng anh ánh. Tôi đến gần, không thấy ngại “tên giết người” đang rình rập. Giống như có sự mách bảo, rất nhanh, tôi dùng sức vặn rời cái cánh ra, cầm nó ở trên tay, lùi nhanh về phía sau. Rồi tôi vác cái cánh bom từ trường gãy đi như chạy về trận địa Cây Dừa. Đại đội trưởng Nh. đứng trong hầm chỉ huy nhắc các khẩu đội kiểm tra lại pháo, đạn. Nhìn thấy tôi anh hỏi:

- Cậu vác cái gì trên vai đấy?

- Dạ, cánh bom từ trường…

- Nhặt được à?

- Dạ, tôi thấy cánh này gần gẫy ở đuôi bom, tôi vặn ra!

Anh há miệng to định quát lên song anh chỉ nói đủ cho khu sở chỉ huy nghe:

- Ai bảo cậu vặn nó ra. May mà bom chưa nổ làm cậu tan xác.

- Cậu này tự do phải kỷ luật mới được.

Chính trị viên Bùi nhìn tôi như nói với cả hai người:

- Mang cái cánh về để mình nhìn cho biết bom từ trường nó thế nào. Lần sau cẩn thận nhé! Thôi, về cho trinh sát chuẩn bị thay ban. Nhớ không được nói lại với bất kỳ ai nghe chưa?

Anh nói nhỏ hơn:

- Nó định ngăn không cho phà chạy và còn định giam người, giam pháo không cho ra khỏi trận địa đấy.

Phà tắc. Bến Thủy tắc: Một, hai, ba,… tám tiếng đồng hồ rồi. Chúng tôi được thông báo: Bom từ trường máy bay rải khi đêm phá không khó lắm, chỉ cần các vật thể nhiễm từ, hoặc phát từ là nó nổ liền. Theo tin tình báo của ta, Mỹ đang thử nghiệm loại bom mới khó phá hơn. Các đơn vị nhanh chóng rút kinh nghiệm trong phá bom sau đó báo cáo lên trên. Thông tin thông báo tiếp: Phà Bến Thủy có mấy đồng chí lái ca nô cảm tử, đưa ca nô không kèm phà chạy nhiều vòng cắt ngang bến sông kích thích bom ghim dưới lòng sông nổ giải tỏa bến, thông phà. Lệnh Trung đoàn: Tất cả các trận địa phải bắn khi máy bay bổ nhào vào bến phà. Có thể bắn uy hiếp để bảo vệ ca nô cảm tử và không để chúng thả thêm bom từ trường xuống lòng sông nơi con phà đi qua.

Máy bay Mỹ kéo vào hết tốp này đến tốp khác. Bọn A6A, loại máy bay bắn phá được trong mọi thời tiết, cả ban ngày lẫn ban đêm thường mang theo 12 quả bom cỡ trung hoặc 24 quả bom cỡ nhỏ. Chúng bay từ hai đến bốn chiếc, vào cắt bom xong quay ra ngay. Bọn A4 đầu hớt, đuôi cong (lính pháo gọi là con vịt) lao xuống bắn tên lửa, rốc-két, cắt bom xong lượn vòng quan sát, phát hiện trận địa pháo bổ nhào đánh ngay. Bọn A7 bay dai như đỉa (có thể bay liền ba tiếng đồng hồ) khiến bộ đội căng thẳng mệt mỏi. Mặc dù vậy các trận địa vẫn bắn mạnh theo mệnh lệnh của trực chỉ huy trung đoàn. Chúng tôi được thông báo các ca nô cảm tử thay nhau chạy và phà đã thông. Tiếng súng báo hiệu phà thông vang lên. Từ trong những con đường cát rợp bóng tre Hưng Thủy, Hưng Dũng, Vinh Tân, tiếng xe chỉnh máy vang lên như tiếng reo mừng.

Buổi tối các khẩu đội và bộ phận chỉ huy sẵn sàng chiến đấu cao độ. Trinh sát nằm ngủ dưới cái lán chìm gần hố chỉ huy. Bỗng dưng đất như bị nén lại, rung lên, tiếng không khí bị dồn ép rít ào ào. Trinh sát hô rất to: A6 bay thấp ném bom! Tất cả lao vào hầm đè lên nhau. Quả bom nổ rất gần, khoét một góc lán, hầm ẩn nấp bị sập cửa, mấy trinh sát nửa người sau vẫn thò ra ngoài. Đẩy được mấy khúc gỗ ra cả nhóm đứng dậy. Trận địa sáng rực. Nhà o Xuân, o Hà bị cháy. Nhà chính dỡ xuống chỉ làm nhà chìm nhỏ, nối với hầm nên dân quân dập lửa nhanh. Bom khoét một góc công sự pháo khẩu đội một. Hầm chống bom bi bị sập. Tôi nhìn rõ o Xuân, o Hà cùng chạy từ nền nhà hầm bên Cây Dừa nhảy vào trận địa vai vác xẻng. Không hề tỏ ra chần chừ, hai o cùng mấy o nữa xúc đất lẫn gạch khỏe như pháo thủ.

Đại đội 8 hy sinh hai chiến sĩ và bị thương năm người. Viên, pháo thủ số hai khẩu đội 1 và Thái quê Hải Phòng, mới bổ sung về khi chiều. (Hai liệt sĩ này tôi lấy tên đặt cho nhân vật Thái và Viên trong tiểu thuyết Nước mắt).

Quần nhau với bọn máy bay A7 mệt lử. Tuy nhiên hai chiếc A7 bị chúng tôi đánh mạnh, bổ nhào nhiều lần cắt bom đều bị dạt ra ngoài.

Đại đội trưởng điện thoại lên trực chỉ huy trung đoàn xin cơ động trận địa.

Đại đội 8 chuyển sang trận địa khu giữa làng Hưng Thủy. Các công sự pháo trống trơ. Khu chỉ huy sở hầm cá nhân sập hết. Hầm cá nhân của tôi gần chỗ quả bom từ trường ban sáng tôi đã bẻ cánh của nó, các o dân quân đã cho nó nổ thành hố bom sâu.

C8 nhận được lệnh vừa đánh máy bay đêm bảo vệ phà vừa cơ động trận địa. Dân quân Hưng Thủy ra giúp bộ đội đào đất đắp lên thành công sự pháo. Thực ra là xúc cát. Toàn cát. Các o đánh cỏ thành tảng ấp lên. O Xuân học sinh lớp 10 (cuối cấp) gánh nước chè xanh đặt gần hầm chỉ huy. Nghe o đối đáp với đại đội trưởng:

- Nhà cháy có sửa được không?

- Cháy hết rồi chú ạ!

- Thế ăn ngủ ở đâu?

- Các chú ở dồn lại, chúng cháu mượn một lán.

- Cho mượn lán trinh sát.

- Chúng cháu đồng ý liền…

- Đã chọn được cậu nào chưa?

- Cháu chấm rồi!

Chính trị viên Bùi cười:

- Có phải cái cậu khi các o phá bom từ trường thì hắn trộm cái cánh chạy về có phải không?

O Xuân chuyển giọng đáo để:

- Đúng rồi chú ơi! Nhưng phải như ri: - Các chú hạ cái thằng A7 vo ve trên trời xuống còn nguyên như chiếc F8 bên Xuân An (nằm phía nam bến phà) để cháu đến cưỡi lên đầu hắn hỏi tội đã.

Cả trận địa cười vang xua tan mệt mỏi.

Trời sáng rõ, tốp A7 bay ra biển. Ngay lúc ấy một tốp A7 khác bay từ hướng núi Mồng Gà thuộc dãy Hồng Lĩnh qua sông Lam bay thẳng vào trận địa chúng tôi. Lúc đó trận địa ngụy trang chưa xong, bốn nòng pháo chưa kịp buộc lá cây đen sì ngóc lên cao. Một tốp A4 từ cửa Hội vòng chếch lên hướng Đông Bắc (hướng 14) bay vào. Hai chiếc A7 bổ nhào, pháo bắn liên tục mấy điểm xạ, nó vẫn lao xuống. Theo tài liệu của trinh sát: Máy bay A7 có hai tên lái. Ở phía dưới ghế ngồi có tấm thép dày che mảnh đạn. Thảo nào bọn chúng đánh gan thế. Các trận địa khác trong Trung đoàn nổ súng. Tốp A7 là lên.

Trên đường bay ấy một chiếc máy bay bị trúng đạn đang bốc cháy. Bộ đội reo hò. Nhân dân Hưng Thủy reo hò. Lâu rồi bà con mới nhìn thấy máy bay cháy. Chính trị viên Bùi nói to :

- Trinh sát quản tốp A4 được không? Nó đâu rồi?

Trinh sát hô lớn:

- Hướng 12 (Tây Bắc) A4 bổ nhào vào trận địa.

Pháo bắn. Cả tốp A4 nối nhau bổ nhào sâu. Sáu quả bom của một trong những chiếc A4 đó rơi đúng vào trận địa C8.

Tổn thất nặng. Hai khẩu đội bị mất sức chiến đấu. Các pháo thủ bị sức ép hơi bom cực mạnh đứng ngây như tượng, tai chảy máu. Đại đội trưởng Nh. bị sức ép bom xin đi trạm xá. Đăng hy sinh tại chỗ. Đại đội phó Xương, đã nhắc tới ở phần trên, bị mảnh bom phạt một mảng đầu nằm vật lên hố chỉ huy. Chính trị viên Bùi cầm lấy cây cờ chỉ huy, gọi tôi lại đứng bên cạnh. Anh giao tôi gom thông tin, quân khí, cùng các o dân quân Hưng Thủy hợp thành một khẩu đội do tôi chỉ huy để thêm nòng pháo bắn các tốp máy bay vẫn đang gầm rú trên bầu trời, bảo vệ bến và con phà.

Trận đánh ác liệt tận vào chiều tối. Đó là ngày 25-8-1968. Ngoài bến, tiếng máy ca nô vẫn nổ đều đều đưa con phà nối hai bờ Bắc-Nam Bến Thủy.

(Còn nữa) (Kỳ sau: Những người sống mãi)
Đại tá-Nhà văn ĐÀO THẮNG (Nguyên chiến sĩ Đoàn pháo cao xạ Đống Đa)
Từ Truông Bồn đến Vinh - Bến Thủy (phần 2)
Từ Truông Bồn đến Vinh - Bến Thủy (phần 1)