II. Bến Thủy – Núi Quyết

Trên bản đồ địa hình quân sự, núi Quyết có tên là núi Dũng Quyết. Đường Phượng Hoàng Trung Đô đi qua sát chân núi phía bắc. Quốc lộ số 1 song đôi với núi thiêng nơi vua Quang Trung đặt Phượng Hoàng Trung Đô. Đầu núi phía nam giáp với bờ sông. Quốc lộ số 1 cặp bờ sông Lam. Nơi đó là phà Bến Thủy.

Cơ quan tham mưu, Ban trinh sát trung đoàn “chấm” trận địa chúng tôi ở xóm Đình đầu xã Hưng Thủy. Tổ trinh sát thuộc đại đội một của tôi (sau đổi thành đại đội 8) dẫn xe pháo chiếm lĩnh “trận địa cây Dừa”. Đến quán Gió, trinh sát đánh chéo tay làm hiệu dừng xe. Đại đội trưởng Nh. ngó đầu qua khung cửa xe nói như quát:

- Xe đi cách nhau 50 mét, sát vệ đường bên trái. Pháo quay nòng hướng số 4 (hướng đông) nòng pháo chếch 30' (ba mươi độ) toàn đại đội sẵn sàng nổ súng.

Anh quát cậu trinh sát trẻ:

- Nhanh lên. Đứng đây chậm một giây là ăn bom của bọn A6.

Cậu trinh sát nói to:

- Báo cáo đại đội trưởng và các anh, bên trái tôi là cửa hàng ăn uống Bến Thủy. Họ “trụ” lại để phục vụ bộ đội lái xe, thanh niên xung phong và nhân dân khu phố này.

Xe rẽ trái, qua chiếc cầu xi măng nhỏ chỉ đủ cho bánh xe lăn qua, đi thêm hơn trăm mét là trận địa của đại đội tôi.

Lính nhàn. Trận địa có sẵn, cấu trúc vững chắc. Hầm pháo sâu ngang vai, bờ công sự cỏ rất xanh, phía chân ngoài hầm, trồng cây cộng sản lá xanh đậm.

Đây là trận địa chốt của tiểu đoàn 12A phòng không Nghệ An bảo vệ bến phà Bến Thủy. Trinh sát đi tiền trạm “thông báo” lại cho toàn đơn vị: Trận địa trên nền cát, các chiến sĩ D12A đã lát gạch nền các lối đi, trồng rặng cây cộng sản, cây hoa tứ thời. Các cây này được tưới nước rửa mặt của lính hằng ngày mọc thành bụi xanh tốt, sức sống dẻo dai vô cùng. Trong hầm pháo cũng lát gạch chống bụi cát, chống lầy khi mùa mưa đang tới gần. Có một bài học đỡ tốn bao xương máu như ở phần đầu tôi đã nhắc tới là mỗi hầm pháo có một hầm chống bom bi đào ngay vào thành công sự, kiểu hầm chữ A, mái hầm ken gỗ tròn bằng các khúc thân phi lao, cây mấc, cây bứa có nhiều trong các vườn rừng nhỏ của bà con các xã: Hưng Dũng, Hưng Thủy. Giỏi dân vận, xin tử tế bà con không tiếc. Lấp cát và đất. Để hầm chắc hơn có thể ken một lớp gạch rồi lấp đất cát theo hình bờ công sự pháo. Cửa hầm quay về phía hầm pháo. Khi máy bay bổ nhào cắt bom, nếu là bom phá, bom sát thương lao thẳng xuống rất nhanh còn bom bi mẹ sẽ lủng liểng, lủng liểng rồi tách vỏ ra làm hai. Trinh sát giỏi thì nhận ra bom bi sớm, hô to: "Bom bi!" và gõ kẻng. Tất cả pháo thủ, bộ phận chỉ huy ẩn nấp trong hầm. Bom bi nổ ầm ập chỉ mấy giây đồng hồ, tất cả lao về vị trí chiến đấu. Cách tránh bom bi đó đã giảm nhiều thương vong cho bộ đội. Bằng chứng là trận ngay sau đó, máy bay Mỹ rải bom bi vào “trận địa Cây Dừa” của chúng tôi, chả “kiếm chác” được gì ngoài việc làm nát các bụi cây ngụy trang các hầm pháo.

Đứng trên mấy căn hầm nhỏ ở sở chỉ huy trong ca trực một giờ, một giờ rưỡi, hai giờ đồng hồ, tôi dùng ống nhòm bội số lớn quan sát máy bay và nhận dạng các vật chuẩn, các địa danh nổi tiếng của Bến Thủy.

Cầu Bến Thủy hiện nay
Cây cột đèn ngã ba Bến Thủy vẫn đứng hiên ngang sau bao trận bom Mỹ đánh phá bến phà. Trên đỉnh cột đèn này ngày 12-9-1930, Tự vệ đỏ đã treo cờ búa liềm – cờ Đảng, kêu gọi nhân dân nổi dậy chống đế quốc, chống phong kiến. Đó là một trong những dấu tích còn lại của phong trào cách mạng Xô-viết Nghệ Tĩnh. Nhà máy điện Vinh tựa vào núi Quyết vẫn đang hoạt động. Qua ống kính tôi có thể nhìn thấy rõ các vết thương chi chít trên ống khói nhà máy do bị mảnh bom, mảnh pháo hạm chém vào. Nhà máy gỗ bám vào chân núi Quyết phía bờ sông Lam. Khu bể chứa nước máy cung cấp nước cho thành phố ở phía đầu núi phía bắc còn lác đác mấy hàng cây bạch đàn, cây phi lao. Từ phía trận địa Cây Dừa nhìn thông thống vào tận chân núi Quyết. Gần như tất cả mọi ngôi nhà ở đây đã ngã xuống, hàng cây đã ngã xuống. Tôi nhìn rõ qua ống nhòm những cửa hang dẫn vào hệ thống hầm rộng phía trong núi dùng để chứa quân, lương, chứa cả máy móc và dân khu phố 5, Hưng Dũng, Hưng Thủy, Vinh Tân… khi tình hình chiến sự quá ác liệt sơ tán vào. Có bao sự tích anh hùng, bao cảm thương, bi thương đã xảy ra trên núi và trong núi Quyết (tôi sẽ trở lại các tích truyện này trong phần sau).

Trung đoàn bố trí đại đội 3 pháo 57 ly (57mm) vào “ôm” chốt (xin gọi là Xê 3 (C3) theo cách ngắn gọn thời kháng chiến). C3 cách trận địa Cây Dừa mấy khu vườn, một số nhà dân đã làm nửa nổi nửa chìm. Trận địa C3 có hai khẩu đội sát mép con đường gần cột đèn Ngã ba Bến Thủy trên đường ra Cảng Bến Thủy (bà con gọi là cột đèn 30 – 31). Đây là một trận địa tối quan trọng trong bảo vệ bến phà và rất dễ bị máy bay địch phát hiện. Cánh lính hai trận địa C8 và C3 vẫn tắm giặt chung một cái giếng lớn là giếng dùng chung của các gia đình bám làng chưa đi sơ tán. Xóm Đình có những con ngõ dài, bà con trồng toàn tre gai thấp như tre dại mọc hoang. Dưới chân các bờ tre ấy cây me đất mọc ken dày, tốt rợp, mùa này đang nở hoa, tạo nên những bờ hoa tím dài ngút mắt. Tôi chưa từng thấy cây chua me đất ở đâu lại lên khỏe, nở hoa rực rỡ đầy vẻ lãng mạn như ở xóm Đình. Cánh trinh sát phát hiện hai cô gái, một cô có tên là Hà (tên thật, không phải tên bịa của văn chương) và cô Xuân đang học cấp ba nghe nói sắp sơ tán theo trường lên Tân Kỳ. Có cậu trinh sát còn làm thơ “Lối nhỏ em về đầy hoa tím”.

Vừa chiếm lĩnh xong trận địa, chính trị viên phó đại đội đã vào liên hệ với địa phương hiệp đồng chiến đấu. Vào lúc này dân quân Hưng Thủy, chủ yếu là nữ dân quân, đã hợp đồng chiến đấu với nhiều đơn vị bảo vệ phà Bến Thủy. Các o gần như sống tập trung, lúc nào cũng sẵn sàng, khi có lệnh, hay chưa có lệnh, mà xảy ra chiến đấu, máy bay đánh trận địa, các o tự động chạy ngay ra trận địa pháo.

Độ này trên bầu trời thành phố Vinh thường xuất hiện các tốp máy bay: 8 chiếc, 10 chiếc, 12 chiếc. Chúng kéo đi ầm ầm, đánh cầu Đước, cầu Mượu, phà Nam Đàn, Truông Bồn. Ý kiến của trinh sát và tham mưu trung đoàn thống nhất: Máy bay Mỹ sẽ đánh Bến Thủy – Vinh ác liệt trong những ngày tới.

Tiểu đoàn 5 pháo cao xạ 37 chúng tôi được Đảng ủy, tham mưu trung đoàn cho đổi thành tiểu đoàn 25. Ba đại đội 1, 2, 3 thành các đại đội 8, 9,10. Đại đội 9, đại đội 10 bố trí trận địa tại xã Xuân An, gần cây đa lách (cây đa ở chỗ ngã ba đường, một đường rẽ về quê thi hào Nguyễn Du phía nam Bến Thủy, thuộc huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Hai đại đội này ôm phà ở bờ nam sông Lam, gần như độc lập chiến đấu. Đại đội 8 bố trí bên cạnh đại đội 3 pháo 57 ly do trung đoàn trực tiếp chỉ huy.

Đúng như ta nhận định: Ngày 23-6-1968 (theo ghi chép của chúng tôi) Mỹ mở chiến dịch đánh phá ngã ba Đồng Lộc, một địa danh mới. Trước đó chúng đánh Khe Giao, Khe Út, phà Địa Lợi (thuộc Hà Tĩnh) gần Đồng Lộc. Đánh ngã ba Đồng Lộc, Bộ chỉ huy Mỹ chọn một thủ đoạn mới, tàn bạo hơn hẳn: Đánh hủy diệt cả một vùng. Chúng đánh liên tục, khốc liệt trong vòng một tháng và đến ngày 20-7-1968 xảy ra sự kiện gây xúc động lớn: 10 cô gái thanh niên xung phong còn rất trẻ hy sinh trong khi sửa đường. Sau đó máy bay Mỹ giảm đánh Đồng Lộc.

Bến Thủy – Vinh căng thẳng chờ đợi. Ngày 11-7-1968 máy bay Mỹ mở đầu chiến dịch đánh Bến Thủy. Lúc đó gần trưa, anh nuôi chuẩn bị mang cơm ra trận địa. Một tốp A4 bay từ biển vào dàn đội hình ném bom bến phà. C3, C8 ở bờ bắc, C9, C10 ở bờ nam nổ súng. Ngay lúc ấy, máy bay Mỹ bâu vào đánh đại đội 3. Bom bi nổ dày đặc trong trận địa C3, có những loạt chúng ném vào C8. Chúng sử dụng nhiều tốp liên tục đánh bến phà. Trên bầu trời Vinh trinh sát đếm được 25 chiếc máy bay phản lực Mỹ – cùng lúc ấy pháo tầm xa từ các tàu tuần dương, tàu khu trục Mỹ đậu phía ngoài Hòn Mắt bắn vào núi Quyết và bến phà. Loại pháo có liều nổ tăng tốc khi bay trên trời. Pháo Mỹ bay qua đầu chúng tôi nổ ở các cửa hang chân núi Quyết. Các trận địa đánh trả máy bay Mỹ quyết liệt. Toàn trung đoàn đã nổ súng. Khói bom, khói bụi từ các trận địa cao xạ phủ kín một dải từ phía đầu bắc chân núi Quyết đến tận bờ nam phà Bến Thủy.

Trong khói đen tôi nhìn rõ những mảnh vỏ bom bi mẹ tách ra lúc lắc, lúc lắc rơi xuống sau tiếng nổ đanh nhức của hàng ngàn quả bom con. Tiếng nổ tức ngực của bom sát thương, tiếng bom phá nổ sâu rung chuyển đất.

Từ trận địa C3, ba phát súng cấp cứu nổ liên tiếp. Các o dân quân chạy ra trận địa. Tôi thấy o Hà từ trong nhà hầm cây dừa chạy ra, nhảy vào hầm pháo khẩu đội 3, o Xuân chạy vào khu sở chỉ huy. O Xuân người đậm, chạy nhanh như con trai, nói nhanh, môi hơi cong lên, rất nghịch.

Khẩu đội trưởng khẩu đội 3 bị thương nhẹ ở chân. Đại đội 8 áp dụng kinh nghiệm tránh bom bi của tiểu đoàn 12A Nghệ An cho đơn vị ẩn nấp khi bom bi mẹ tách vỏ nên tuy bom bi rơi vào trận địa nhiều nhưng bộ đội ít bị sát thương. Khẩu đội trưởng khẩu đội 3 vào hầm sau cùng nên bị thương vào phần mềm ở chân.

Bom bi nổ, ni lông phủ chống mưa ở các lán bị xé tan, ngụy trang trong các hầm pháo, nòng pháo, trận địa nát nhừ.

Cuối giờ chiều, tôi cùng Triều trinh sát đi lấy ngụy trang. Qua bờ đê ngăn giữa Hưng Thủy và thôn Phong Định, xã Hưng Dũng tôi kéo tay trinh sát trẻ măng chạy về phía kho của hợp tác xã nơi để thi hài liệt sĩ đại đội 3. Bảy liệt sĩ nằm trên các ghế băng ghép lại nằm nối nhau. Các anh được phủ vải phin phòng không (đã nhuộm màu xanh lá cây) mặt phủ một vuông vải trắng, cạnh mỗi người là một bát cơm nén, một quả trứng và một đôi đũa bông. Tôi cúi người nhìn tờ giấy học sinh ghi tên các anh. Tôi nhấc vuông vải trắng nhìn mặt một liệt sỹ có tên là Mai, đầu anh bị mất một mảng lớn. Da mặt vàng nhợt, mắt khép hờ. Đại đội 3 pháo 57 ly do anh hùng Nguyễn Huy Hùng làm đại đội trưởng. Anh Hùng bị nhiều vết thương từ các trận đánh ở đồi Búp-lê (Bắc Ninh), Cầu Giẽ (Hà Tây – nay là Hà Nội). Đại đội 3 của anh còn đánh những trận ác liệt nhất, bộ đội hy sinh nhiều nhất trong hai thời kỳ khốc liệt năm 1968 và năm 1972 trung đoàn tôi kiên cường bám chắc bảo vệ thành phố Đỏ anh hùng.

Đồng chí ở bộ phận chính sách nói nhỏ: Khẩu đội của Mai nằm sát đường ra cảng, bị trúng nhiều rốc-két, bom bi. Một quả bom bi rơi trúng làm vỡ mũ sắt Mai. Chúng tôi phải lựa mãi mới bỏ mũ sắt ra được. Các liệt sĩ đều đưa đi mai táng ở nghĩa trang Mụ Nuôi đầu thôn Phong Xuân, xã Hưng Dũng. Các chiến sĩ phòng không, dân quân tự vệ hy sinh từ đầu chiến tranh (từ ngày 5-8-1964 đều mai táng ở nghĩa trang này).

Các anh nằm đây là liệt sĩ đầu tiên của trung đoàn chúng tôi ở thành phố Đỏ.

Đại tá – Nhà văn Đào Thắng (Nguyên chiến sĩ Đoàn pháo cao xạ Đống Đa)

(Còn nữa)

(Kỳ sau: Bảo vệ Bến Thủy thông suốt)

Từ Truông Bồn đến Vinh - Bến Thủy (phần 1)