Vót cọt tiêu dẫn xe qua Truông Bồn (1968) ở đại đội thanh niên xung phong

I- Truông Bồn

Năm nay (năm 2008) vừa tròn 40 năm quân và dân tuyến lửa Khu Bốn đánh thắng cuộc ném bom hạn chế của Mỹ; cũng tròn 40 năm cuộc Tiến công chiến lược Mậu Thân 1968 và 40 năm chiến thắng Khe Sanh-Tà Cơn-Làng Vây.

Còn nhớ cuộc tiến công Mậu Thân của quân, dân ta “Đưa chiến tranh đến tận giường ngủ của người Mỹ” làm thay đổi cục diện chiến tranh cùng thất bại về chiến lược buộc phải điều chỉnh chiến lược tiến hành ném bom hạn chế miền Bắc Việt Nam và sau đó là Việt Nam hóa chiến tranh (năm 1969).

Ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ khi đó là Lin-đơn Giôn-xơn tuyên bố ném bom vùng cán xoong (từ vĩ tuyến 20 trở vào vĩ tuyến 17). Thực tế sau đó Mỹ ném bom từ vĩ tuyến 19 trở vào, đánh từ cầu Bùng (Diễn Châu) Nghệ An, dọc đường 7 lên Đô Lương, Con Cuông, Kỳ Sơn. Chúng đánh phá hủy diệt các cầu phà trên quốc lộ số 1. Vận chuyển của ta chi viện cho miền Nam chủ yếu đi theo quốc lộ số 15. Các trung đoàn pháo cao xạ, tên lửa của ta từ Bắc Bộ chi viện cho vùng cán xoong cũng hành tiến theo đường 15. Từ ngã ba Đô Lương qua Rạng Rùng, Rú Nguộc,... Chợ Cồn đi lại hết sức khó khăn. Tất cả xe vận tải, đại xa, xe kéo khí tài và đạn tên lửa, xe tăng, xe thiết giáp v.v. rẽ về ngả qua Truông Bồn. Và như vậy Truông Bồn trở thành trọng điểm đầu tiên trong số 60 trọng điểm máy bay, pháo biển Mỹ tạo ra trên vùng cán xoong, một trọng điểm có ý nghĩa chiến lược sống còn trong cuộc ném bom hạn chế man rợ của Mỹ.

Do đánh giỏi, trưởng thành nhanh chóng Trung đoàn 233 mang tên Đống Đa chúng tôi được Bộ giao nhiệm vụ cơ động tăng cường cho chiến trường A2 (tuyến lửa Khu Bốn). Mệnh lệnh cấp trên giao ngắn gọn, cấp bách: Tổ chức hành quân nhanh nhất, chiếm lĩnh các trận địa bảo vệ trọng điểm giao thông chiến lược thành phố Vinh - Bến Thủy.

Đường hành quân từ chân núi Chẹt, huyện Quảng Xương qua thị xã Thanh Hóa lên Sim, Bôn theo đường 15 qua dốc Bò Lăn, tây Thanh Hóa, tây Nghệ An, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ xuống Đô Lương. Từ vị trí đứng chân quanh thị trấn Đô Lương từng đại đội pháo tổ chức vượt trọng điểm Truông Bồn. Từ 11 giờ đêm đến 3 giờ sáng hôm sau, từng trung đội hai khẩu giữ giãn cách cự li đủ chi viện cho nhau. Đại đội chỉ huy, các cơ quan trung đoàn: tham mưu, chính trị, hậu cần, trạm xá, trạm sửa pháo v.v.. đi xen kẽ với các đại đội. Toàn trung đoàn vượt Truông Bồn trong ba đêm an toàn. Đêm khuya thỉnh thoảng một chiếc A6 từ biển bay thấp vào rải bom phà Nam Đàn, phà Mượu trên đường về Vinh - Bến Thủy. Năm giờ sáng ngày 6-6-1968, các đại đội chiếm lĩnh xong trận địa phía tây đèo Truông Bồn thuộc địa phận hai xã Nam Nghĩa, Nam Thái. Vừa tỏ mặt người, trinh sát trung đoàn cùng một lúc với trinh sát đại đội tôi phát hiện có máy bay trinh sát. Hai chiếc máy bay F8 bay từ phía Vinh lên theo đường 49. Hai chiếc máy bay trông như hai con cá chuối, tiếng động réo lên như còi. Trung đoàn nhận định máy bay địch trinh sát dọc đội hình trung đoàn.

Địa hình tây Truông Bồn toàn các đồi sỏi đá ong rất rắn. Hành quân dài ngày, pháo thủ không còn đủ sức cuốc sâu hơn. Dựa vào các hầm pháo cũ nông choèn. Lính truyền tai nhau, các trung đoàn phòng không: đoàn Tân Trào (Trung đoàn phòng không 210), đoàn Tam Giang (Trung đoàn phòng không 282) đoàn Xung Kích (Trung đoàn phòng không 241) khi vào tuyến lửa Khu Bốn vượt Truông Bồn cũng chiếm lĩnh các trận địa này. Nhiều đơn vị đã đụng độ với máy bay Mỹ tại đây. Các đại đội được lệnh khẩn trương củng cố công sự, ngụy trang cho tốt. Khu vực này trồng toàn bạch đàn, cây mới lên quá đầu người lưa thưa, các mé đồi cây bụi lúp xúp, cây trạc trìu, cây chua ngút, cây lá vằng… Mười phút sau khi tốp F8 bay qua, trinh sát phát hiện một tốp máy bay hai chiếc, một F4, một A3J (RA5C) bay dọc đội hình rất ổn định. Trinh sát báo cáo: Chiếc A3J chụp ảnh quang học đội hình trung đoàn. Ảnh đó sẽ được truyền thẳng về các hàng không mẫu hạm và trung tâm. Ý định của địch định tổ chức lực lượng lớn đánh vào các trận địa đã lộ rõ. Chúng ta không thể tránh được trận đánh có tính chất tao ngộ này. Chúng sẽ sử dụng các loại vũ khí gây sát thương lớn làm giảm sức chiến đấu trước khi trung đoàn vào chốt mục tiêu chiến lược. Trung đoàn hạ quyết tâm: Xây dựng tinh thần quyết chiến quyết thắng cho bộ đội. Quyết đánh trả địch mãnh liệt, bảo vệ Truông Bồn và các đơn vị đang sống chết với trọng điểm.

Máy bay Hải quân Mỹ sử dụng đội hình lớn 8 chiếc, 12 chiếc, 16 chiếc từ biển vào, dàn đội hình bổ nhào ném bom, bắn phá các trận địa. Rốc-két, rải bom bi dày đặc và ném các loại bom phá, bom sát thương. Các đại đội đánh trả máy bay Mỹ quyết liệt. Ngay từ đầu trận đánh bộ đội đã bị thương vong. Hầm pháo không đủ độ sâu cần thiết, pháo thủ vẫn còn có người sử dụng áo giáp rơm như khi còn ở ngoài Hà Nội. Chưa có kinh nghiệm chống bom bi, bom bi nổ chậm càng bỡ ngỡ hơn. (Sau này khi về đến Vinh, tiểu đoàn tôi đã học được kinh nghiệm chống bom bi của tiểu đoàn 12A Nghệ An).

Tiếng súng báo cấp cứu từ các trận địa vang lên. Ở các xã vùng đồi dân thưa thớt, tập trung được dân quân phải mất khá nhiều thời gian. Những người đầu tiên chạy đến cấp cứu bộ đội là những chị em thanh niên xung phong đại đội 117. Bếp ăn đại đội tôi đặt cùng trong làng trú quân của đại đội 117. Vài lần vào với nhà bếp tôi đã nhìn thấy chị em giặt giũ, chải đầu ở ngay cái giếng chỗ anh nuôi đơn vị kéo nước, vo gạo, rửa rau, nấu cơm. Các cô còn trẻ, trạc tuổi 20 chúng tôi, có cô còn ít tuổi hơn. Họ hồn nhiên vừa chải đầu vừa hát: Câu hò trên đất Nghệ An, Cô dân quân Làng Đỏ, Bài ca bên cánh võng. Các cô cũng tán ra trò, có cô còn đặt thơ, nói lái: Anh ơi mít đó, Em ngó bộ dạng anh thư sinh, gánh cơm rụt cổ như ri thì mó mần răng dược hể.

Đại đội cử lính trinh sát chạy ào vào đại đội thanh niên xung phong yêu cầu giúp đỡ. Vừa ra khỏi trận địa đã thấy các cô chạy theo hàng dọc, quần xắn móng lợn, tóc búi sau gáy. Thường thì con gái xứ Nghệ tóc rất dày và dài, thể hiện sức sống mạnh mẽ nhưng khi cần thiết thì rất quyết liệt.

Bom bi nổ chậm vẫn đang nổ chát chúa trong các trận địa. Bom nổ trong các hầm pháo, khói đen lẫn đất bụi đỏ bốc lên đặc sệt bay quẩn quanh trận địa. Một số pháo thủ bị thương nhẹ phải đưa ra căn hầm lớn chứa đạn dưới sườn đồi tránh bị sát thương lần nữa vì bom bi. Chỉ huy đơn vị đang trao đổi các biện pháp khắc phục bom bi nổ chậm khi ấy còn đang rất khó khăn, biện pháp nào cũng dễ gây thương vong, giảm quân số chiến đấu. Các cô gái xuất hiện do một nam thanh niên dẫn đầu, dùng những cái sào rất dài, ở mút đầu có buộc những mảnh vỏ thùng lương khô hình chũm để xúc những quả bom bi hất ra xa mé đồi. Đó là một sáng tạo, bộ đội phấn khởi nhận lấy những cây sào dài từ tay các em. Các cô đi sát phía sau tinh mắt chỉ mặt những quả bom bi còn nấp ở đâu đó. Thời điểm này, Mỹ đã cải tiến dùng bom bi “quả ổi” thay cho bom bi “quả dứa”. Bom bi “quả ổi” chứa được khoảng 450 đến 500 quả bom con trong bom mẹ (bom bi dứa chứa được ít hơn). Khi bom bi nổ, viên bi bắn ra và gây ra sát thương rồi lặn vào bên trong cơ thể, ngũ tạng rất khó tìm và khó gắp ra. Nhưng bom bi ổi có một nhược điểm lớn là khi nổ sức xuyên phá kém. Hầm chỉ cần có nóc dày 40cm thì bom bi ổi chỉ có ở ngoài “mà khóc”.

Thanh niên xung phong lấp hố bom ở Cầu Om (Đô Lương) năm 1968. Ảnh tư liệu

Trận đánh ác liệt đầu tiên của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Đống Đa pháo cao xạ trên tuyến lửa Khu Bốn gắn với Truông Bồn theo tài liệu tổng kết của đồng chí Hà Minh Cường khi ấy là trưởng ban tác chiến trung đoàn, sau là cán bộ tổng kết phòng khoa học quân sự Quân khu Bốn: ngày 6-6-1968, máy bay Mỹ cất cánh từ các tàu chở máy bay Hankook, Kitty Hawk, Mitway tập kích nhiều đợt, mỗi đợt từ 7 đến 12 chiếc A4, A6 có máy bay F4, F8 bảo vệ đánh vào các trận địa đại đội 1, đại đội 3 và đại đội 6. Máy bay Mỹ ném bom bi, bắn rốc-két vào khu hậu cần xe máy trung đoàn và nơi đóng quân của các đơn vị thanh niên xung phong. Trung đoàn bắn rơi hai máy bay Mỹ. Chiếc A6 rơi tại chỗ, giặc lái nhảy dù xuống phía đông Hòn Ngư nhưng chúng ta phải trả một cái giá thật đắt. Mười ba cán bộ, chiến sĩ hy sinh tại trận địa và một số bị thương nặng đã mất tại Quân y viện 4 quân khu, các bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh Nghệ An. Hơn 40 đồng chí bị thương, trong đó có thanh niên xung phong đại đội 117 và dân quân các xã Nam Thái, Nam Nghĩa (Nam Đàn) và xã Bắc Sơn (Đô Lương).

Chiều tối, hai chiếc A7 (loại máy bay mới xuất hiện của Mỹ) bay tuần thám phía xa, các đại đội nhận được điện đào đất, mở cửa hầm pháo chuẩn bị hành quân. Mệnh lệnh Bộ giao Trung đoàn Đống Đa (E233) phải chiếm lĩnh các trận địa Bến Thủy, Vinh trước ngày 10-6-1968 bảo vệ nút giao thông quan trọng bậc nhất ở bắc Quân Khu Bốn. Cuộc chia tay thật xúc động. Tôi đang làm trực ban trinh sát không được rời vị trí chỉ nhận được nhiều lời chào, những bàn tay cầm xẻng cuốc hết sức vất vả nhưng vẫn mềm mại của các cô gái. Các cô thanh niên xung phong sà vào với cánh pháo thủ trong các lán. Tôi thấy cả các chiến sĩ xe tăng đội mũ công tác đến chia tay chúng tôi. Một chiến sĩ cao lớn (có lẽ là lái xe tăng) đến vỗ vai tôi:

- Cậu đứng đây là thiệt.

Anh cười:

- Bọn mình vào Làng Vây, Khe Sanh diệt Mỹ trả thù cho bộ đội phòng không và thanh niên xung phong đã hy sinh bảo vệ Truông Bồn!

Nói xong anh cũng đi nhanh về phía hầm pháo (sau này tôi mới được biết là đơn vị tăng - thiết giáp của anh Đoàn Sinh Hưởng. Sau này anh được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, hiện là Trung tướng – Tư lệnh Quân khu Bốn).

Tôi đứng nghiêm, mặt ngẩng lên, đôi mắt tinh tường quét ống nhòm dọc phía biển. Từ các lán bộ đội, thanh niên xung phong thành đôi tản ra bên ngoài. Có đôi còn dắt nhau vào hầm pháo, nhiều đôi tản ra dưới bóng những cây bạch đàn. Họ bên nhau, họ hẹn hò nhau. Có đôi còn ôm nhau, siết chặt lấy nhau (không cái gì qua được đôi mắt trinh sát của tôi). Nhưng ngay lúc đó tiếng khàn khàn của Đại đội phó Xương phát ra từ hố chỉ huy:

- Các khẩu đội kéo pháo ra ngoài công sự, chuẩn bị hành quân.

Rất nhanh, bóng lính pháo đội mũ sắt chạy về bên pháo. Người đứng ở cửa hầm pháo đông gấp bội. Một cuộc “dắt pháo” ra khỏi hầm nhẹ băng băng. Xe kéo pháo xuống dốc đồi. Các cô thanh niên xung phong đứng thành từng tốp trên đường chúng tôi hành quân về Vinh. Nhiều bàn tay vẫy, có cô đưa mùi xoa lên lau nước mắt. Xe chạy đèn gầm, Máy bay địch đã đến thả pháo sáng đầu dốc Truông Bồn phía Đô Lương. Mấy cậu pháo thủ hét rất to:

- Đợi anh! Anh sẽ trở lại Truông Bồn.

- Có tin gì báo cho anh em nhé.

- Em ơi! Nếu máy bay nó ít đánh thì về Vinh - Bến Thủy tìm anh.

Tôi thấy nóng ở khóe mắt. Những lời hò hẹn thật là đẹp. Nhưng tôi, tôi là người lính trinh sát có thói quen lường trước những sự việc xảy ra, phán đoán diễn biến của chiến tranh. Tôi hiểu những trận đánh khốc liệt đang đợi trung đoàn tôi ở Vinh - Bến Thủy, trọng điểm - địa danh nổi tiếng bậc nhất đất nước trong cuộc chiến. Kẻ thù đang muốn biến Vinh - Bến Thủy thành một tọa độ chết. Những lời hẹn hò kia, lời nào thực hiện được. Có thể những người bạn, người đồng chí của tôi sẽ mang theo những lời hẹn hò xuống lòng đất. Còn chúng ta luôn nhớ, chúng ta không được phép quên, không bao giờ được phép quên những lời hẹn hò ấy.

(Còn nữa)

Đại tá-Nhà văn ĐÀO THẮNG (nguyên chiến sĩ Đoàn pháo cao xạ Đống Đa)

Kỳ sau: Bến Thủy-Núi Quyết