Kỳ 4: Những người con của biển
 |
|
Lễ tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh để bảo vệ chủ quyền Tổ quốc.
|
Đi cùng chuyến với tôi ra Trường Sa lần này có Hương Giang, nữ phóng viên Báo Hải quân Việt Nam. Sở dĩ cả đoàn nhưng chỉ có tôi và Hương Giang là phóng viên nên đi đến bất cứ đâu chúng tôi cũng được dành cho thời gian nhiều nhất, cơ hội tốt nhất để tìm hiểu, trò chuyện với cán bộ, chiến sĩ trên đảo. Vừa lên đến đảo Song Tử Tây, xuống thăm một phân đội độc lập, Thượng uý Hoàng Văn Hải, Chỉ huy trưởng phân đội kéo tôi ra nói nhỏ:
- Trung sĩ Trương Công Dũng, Tiểu đội trưởng là một chiến sĩ có nhiều điểm mạnh, nhưng anh đừng hỏi về hoàn cảnh gia đình cậu ấy nhé. Dũng đang có chuyện buồn.
Nhưng câu chuyện không đầu không cuối của tôi cứ kéo Dũng từ chuyện này sang chuyện khác. Rồi Dũng cũng tâm sự với tôi những điều anh còn giữ kín.
- Mẹ em mất cách đây mới được 3 tuần trong một tai nạn giao thông. Nhận được tin mẹ mất em như người chết đứng. Vì điều kiện công tác em không thể về chịu tang mẹ được. Bây giờ em chỉ biết phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ ở đảo như lời mẹ em căn dặn trước khi ra đảo.
Thì ra chàng trai sinh năm 1988 này đang có chuyện thật buồn. Ai cũng hiểu tâm sự của Dũng, cũng như tâm sự của anh em ngoài đảo. Vì điều kiện công tác nên anh em ở ngoài đảo có phải muốn về là về được đâu. Phần vì biển cả cách trở xa xôi, phần vì phương tiện không phải lúc nào cũng có. Nhưng quan trọng nhất là nhiệm vụ với các anh là điều cả đất liền đang tin tưởng, hy vọng. Bộ đội Trường Sa là thế, họ đã và đang hy sinh tất cả vì Tổ quốc thân yêu mà chẳng hề so bì tính toán. Dũng vẫn là một chiến sĩ tiêu biểu gương mẫu trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Dũng thổ lộ với tôi về ước mơ của mình:
- Em muốn hoàn thành nhiệm vụ ngoài đảo rồi được đi học để phục vụ lâu dài trong quân đội. Với em, đảo đã là một phần quen thuộc, như một nửa cuộc sống của em. Nếu được phục vụ lâu dài trong quân đội, em sẽ tiếp tục xung phong ra công tác tại đảo.
- Thế Dũng không định lấy vợ hay sao mà lại xung phong ra đảo?
- Chuyện đó em chưa tính tới. Em cũng muốn như các anh ở đây. Phấn đấu cho sự nghiệp rồi mới tính chuyện gia đình.
Điều Dũng nói như tiếp cho tôi thêm niềm tin về những chiến sĩ bảo vệ đảo. Đúng như điều tôi đã tâm sự với Thiếu úy quân nhân chuyên nghiệp Ngô Anh Phụng thuộc bộ phận kỹ thuật của đảo Sơn Ca. Phụng giờ đã bước qua tuổi băm, cái tuổi mà ở quê có chậm thì con đầu cũng đã vào lớp 1, thế mà Phụng vẫn trong cảnh “phòng không”. Thực ra thì chàng trai quê Hưng Yên này cũng đã yên bề gia thất nếu… không vì nhiệm vụ. Phụng và người yêu đã lên kế hoạch từ trước Tết năm 2008, nhưng rồi anh vẫn còn nhiệm vụ ngoài đảo nên đám cưới của họ đã phải hoãn lại. Ngô Anh Phụng nói với tôi chắc như đinh đóng cột:
- Tôi và người yêu đã thống nhất với nhau là tổ chức đám cưới trong năm nay. Nhưng… với điều kiện kiện tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ để trở về đất liền.
Cái chữ “nhưng” của Phụng thật đơn giản, vậy mà vẫn luôn là một “dấu lặng” trong đời người. Chuyện hoãn đám cưới đối với những chiến sĩ có nhiệm vụ đặc thù như Phụng cũng không có gì là ghê gớm. Điều đáng trân trọng là anh đã thuyết phục được cả gia đình hai bên để hoãn đám cưới ấy. Phụng bảo: Với các cụ ở quê khi mà các cụ đã ấn định ngày cưới thì muốn thay đổi đâu phải dễ. Thế là cứ phải thuyết phục mãi. Không có một con số thống kê cụ thể, nhưng số những cán bộ ngoài tuổi 30 chưa lập gia đình ở Trường Sa mà chúng tôi gặp là khá nhiều.
Ở Trường Sa, chuyện cán bộ quá tuổi “băm” chưa lập gia đình khá nhiều, nhưng lại có chuyện, nhiều người vợ đã sinh con cả năm rồi mà vẫn chưa biết mặt con. Thiếu úy quân nhân chuyên nghiệp - y sĩ Bùi Minh Tâm ra công tác tại đảo Sinh Tồn Đông khi vợ đang mang bầu. Rồi vợ anh sinh cháu nhưng cũng đã mấy tháng rồi anh chưa biết mặt con gái. Chỉ biết con gái tên là Hương Giang cùng là tâm nguyện của cả hai vợ chồng khi chị mang bầu. Câu chuyện của Bùi Minh Tâm cũng giống như của Hà Minh Nam trên đảo Tốc Tan. Biết Nam có hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, tôi dành chút thời gian ít ỏi trên đảo để tìm gặp bằng được anh. Cũng phải nói khó với chỉ huy đảo tôi mới lên được nơi Nam đang làm việc. Nam là nhân viên ra-đa nên những giờ làm việc phải có sự tập trung cao độ, nếu nghỉ bắt buộc phải có người thay thế. Hà Minh Nam đúng là tiêu biểu của những người “một chốn bốn quê” đầy khó khăn vất vả.
 |
|
Sóng biển mạnh khiến đoàn công tác không thể vào được nhà giàn DK1 thuộc bãi Phúc Nguyên.
|
- Tôi sinh ra ở Nga Sơn, Thanh Hóa. Vợ quê ở Hà Tĩnh. Sau khi cưới, vợ chồng chuyển vào ở huyện Đất Đỏ, Bà Rịa-Vũng Tàu vì vợ tôi công tác ở đó. Giờ thì vợ đã sinh con được 14 tháng. Tuy nhiên, từ lúc vợ sinh đến giờ tôi cũng chưa biết mặt con, chỉ hình dung được qua những dòng chữ vợ viết trong thư.
Chính câu chuyện của Nam cũng làm tôi trăn trở. Vợ anh một thân một mình, vừa đi dạy học, vừa nuôi con nhỏ, chồng ở xa, bố mẹ hai bên đều ở xa. Anh cũng chỉ biết động viên tinh thần chứ chẳng giúp gì được nhiều cho chị. Chợt nhớ những đứa trẻ ở thành phố, mỗi bước các cháu tới trường là cha đưa mẹ đón, cô thầy nâng niu. Tuổi thơ của các cháu xứng đáng được hưởng những điều tốt đẹp ấy. Chỉ chạnh lòng cho các cháu như con của Nam khi điều kiện bố phải xa nhà. Nguyện vọng lớn nhất của Nam là xin chuyển cho vợ về công tác tại thành phố Nha Trang (Khánh Hòa) để nếu có điều kiện vào đất liền, vợ chồng anh thường xuyên được gặp nhau.
Tàu 936 của chúng tôi thả neo cách nhà giàn DK1 thuộc bãi Phúc Nguyên-thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc khoảng 1km nhưng không thể vào nhà giàn được do sóng biển quá mạnh. Các thủy thủ đã rất cố gắng đưa ca-nô vào tăng bo từng người nhưng vẫn chẳng thể vào được, độ rủi ro quá lớn. Thế là đoàn công tác lại phải quay ra. Một cảnh tượng đầy xúc động khi các chiến sĩ trên nhà giàn đứng vẫy tay chào đoàn công tác. Gần nhau lắm mà chẳng gặp được mặt nhau. Những chiến sĩ nhà giàn là thế, quanh năm chỉ có tiếng sóng biển bên cây súng bảo vệ chủ quyền. Thượng tá Ngô Văn Cải, Phó đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Đoàn M46 cho biết: “Chính từ điều kiện thường xuyên bị cô lập như thế mà các chiến sĩ nhà giàn lại có nhiều sáng tạo. Anh em trên nhà giàn tự trồng được rau xanh, làm nước mắm… Riêng các hoạt động văn hóa tinh thần thì các chiến sĩ nhà ta tổ chức phong phú không kém gì trên các đảo”.
Nhớ lại quá trình Bộ đội Hải quân ra xây dựng nhà giàn buổi ban đầu không thể không kể đến những hy sinh to lớn. Cơn bão khủng khiếp năm 1990 đã đánh sập ngôi nhà giàn DK1/3 khiến 3 đồng chí bị biển sâu nhấn chìm. Rồi chiếc tàu bảo vệ cũng chìm cuốn theo hai đồng chí trong cơn bão năm 1991. Đến mùa mưa bão năm 1998 lại thêm một nhà giàn và 3 đồng chí nữa bị sóng cuốn trôi. Câu chuyện mà những người còn sống sót sau những cơn bão khủng khiếp ấy kể lại thật bi hùng. Hẳn mỗi ai đi biển đều được nghe kể lại tấm gương hy sinh cao đẹp của Thượng úy Nguyễn Hữu Quảng – Phó trạm trưởng về chính trị nhà giàn DK1/3 Phúc Tần. Khi nhà bị đổ, anh đã cùng đồng đội bơi nhiều ngày trên biển. Trong lúc sóng to, gió lớn, anh đã nhường chiếc phao cá nhân và miếng lương khô cuối cùng cho người chiến sĩ yếu nhất rồi từ từ chìm xuống biển khơi. Chao ôi, cái chết với họ sao mà thanh thản, mà cao cả đến thế. Trong số các chiến sĩ hy sinh ấy có người chưa một lần yêu, có người chưa kịp nhìn thấy mặt con lần nào.
Tôi cố nhô lên mặt boong để nhìn toàn cảnh nhà giàn. Sóng biển cấp 6 đánh liên tục khiến những người đi biển dù có kinh nghiệm cũng cảm thấy choáng váng. Tiếng loa thông báo: Toàn tàu chuẩn bị để làm lễ thả vòng hoa tưởng niệm các liệt sĩ đã ngã xuống để bảo vệ vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc. Chỉ một tiếng loa như thế, tất cả đoàn công tác đều có mặt trên boong. Hai ca sĩ là Thuỳ Linh và Ánh Tuyết của Đoàn chèo Tổng cục Hậu cần say sóng chỉ nằm bẹp một chỗ cũng cố gượng dậy để lên được mặt boong. Tất cả nghiêm mình tưởng niệm các liệt sĩ. Bài diễn văn tưởng niệm các liệt sĩ thật xúc động: “Giờ đây, khi nằm lại với biển khơi các anh sẽ không cô quạnh. Thế hệ những người Việt Nam sẽ luôn nhớ đến các anh. Các anh đã ngã xuống cho Tổ quốc được bình yên”. Tôi cũng hiểu rằng, nơi các anh nằm là thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.
Tôi cứ ngẫm nghĩ điều anh Sửu, Thuyền trưởng Tàu 936 nói: “Gian nan của bộ đội đảo thì còn nhiều lắm. Chỉ có điều đến bất cứ điểm đảo nào, tôi vẫn thấy ở đó là sự tự tin, ý chí vượt khó…”. Thì ra, với bất cứ người Việt Nam nào, nhắc đến Trường Sa là nhắc đến một điều gì đó thật thiêng liêng và cao cả. Với mỗi cán bộ, chiến sĩ, họ đến với Trường Sa cũng là ý thức được nghĩa vụ thiêng liêng để bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Trung tướng Nguyễn Song Phi, Phó tổng Tham mưu trưởng nói rằng: “Trong một sự việc, một hoàn cảnh nào đó cần sự đồng thuận, đồng lòng, ai đó còn có chút đắn đo, nhưng với Trường Sa, mọi hoạt động vì Trường Sa đều quy tụ sức mạnh của cả dân tộc. Chẳng thấy một địa phương, một tổ chức, một cá nhân nào so bì tính chuyện thiệt hơn.”.
Bài và ảnh: Nguyễn Anh Tuấn
Trường Sa như tôi biết (kỳ 3)
Trường Sa như tôi biết (kỳ 2)
Trường Sa như tôi biết (kỳ 1)