QĐND - Khi nghỉ hưu, ông đã cùng một số cựu chiến binh thành lập Hội đồng đội Hà Nội để tìm kiếm mộ liệt sĩ. 18 năm, ông đã thực hiện gần 200 cuộc đi tìm, đón hài cốt liệt sĩ về quê hương trên khắp mọi miền của Tổ quốc. Ông là cựu chiến binh, thương binh Nguyễn Văn Chính, Hội trưởng Hội đồng đội Hà Nội (Hội Cựu chiến binh Việt Nam).
Một thời “Chiến sĩ diệt dốt”
Theo địa chỉ ghi trên bì thư, tôi tìm đến phố Hàng Giấy, phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nhà số 10 đây rồi, nhưng nhìn mãi không thấy tấm biển “Hội đồng đội Hà Nội” đâu. Đang loay hoay định hỏi thăm thì một người đàn ông từ trong nhà bước ra. Tôi nhận ra ông ngay, mặc dù chỉ mới gặp ông lần đầu trong buổi họp mặt kỷ niệm 50 năm ngày nhập ngũ vào Nam chiến đấu của các cựu chiến binh (CCB) Trung đoàn Thủ Đô.
 |
| Cựu chiến binh Nguyễn Văn Chính (ngoài cùng bên phải) trong lễ đón nhận hài cốt liệt sĩ Nguyễn Văn Thắng từ huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước về quận Đống Đa, Hà Nội (tháng 7-2009). |
Câu chuyện ông kể, cùng những ký ức của người lính già từng để lại một phần xương máu nơi chiến trường như đưa ông trở về với những năm tháng hào hùng không thể nào quên. Lớn lên khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc tiến lên xây dựng CNXH trong điều kiện hết sức khó khăn, chàng trai trẻ Nguyễn Văn Chính, nhà ở phố Hàng Giấy rất tích cực tham gia phong trào bình dân học vụ do Bác Hồ phát động sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Các lớp học bổ túc văn hóa lúc bấy giờ vừa xóa nạn mù chữ, đồng thời nâng cao dân trí phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Ban ngày, khi đi học, đi làm, tối đến chàng trai Nguyễn Văn Chính lại hăng hái tham gia giảng dạy các lớp bổ túc, xóa mù chữ cho nhân dân tại Trường Thanh Quan B, phố Hàng Cót, quận Hoàn Kiếm.
Tháng 11-1957, cùng với tuổi trẻ của Thủ đô, ông tham gia phong trào Thanh niên xung phong đi xây dựng kinh tế miền núi, tại Ngòi Hóp, tỉnh Yên Bái. Ban ngày phục vụ công trường xây dựng, tu bổ đường sắt rất vất vả, nhưng ban đêm ông vẫn miệt mài giảng dạy các lớp học bổ túc văn hóa cho anh em công nhân và nhân dân trong khu vực. Nhờ cần cù, chăm chỉ, nhiệt tình trách nhiệm trong công việc, nên năm 1960, Nguyễn Văn Chính được chọn đi học nghề ở Nhà máy Dệt kim Đông Xuân.
- Thời gian tham gia phong trào bình dân học vụ và thanh niên tình nguyện, điều gì để lại ấn tượng sâu sắc nhất với bác? - Tôi hỏi.
Không vội trả lời, ông mở tủ lấy ra một tấm hình được cất giữ rất cẩn thận, giọng xúc động, tự hào:
- Đây là bức chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh có bút tích của Người ghi “Tặng chiến sĩ diệt dốt. 1958, Hồ Chí Minh”.
Một kỷ niệm mà đến giờ ông vẫn nhớ như in, đó là vào năm 1957. Lúc ấy ông mới 16 tuổi. Sau gần một năm theo học lớp bình dân học vụ của “thầy giáo” Nguyễn Văn Chính, cô Dần, khi ấy khoảng 35 tuổi, nhà ở phố Hàng Cót, có chồng đi làm việc ở Sơn La, đã thốt lên sung sướng:
- Thầy ơi! Em đã đọc và viết được thư rồi!
Xung phong nơi “hòn tên, mũi đạn”
Với khí thế “cả nước cùng đánh Mỹ”, tháng 8-1964, khi đang là công nhân Nhà máy Dệt kim Đông Xuân, Nguyễn Văn Chính xung phong nhập ngũ. Sau khóa huấn luyện chiến sĩ mới, ông được chọn về làm giáo viên bổ túc văn hóa thuộc Phòng Chính trị, Sư đoàn 320. Tại đây, ông lại tiếp tục tham gia giảng dạy bổ túc văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ ở các cơ quan, đơn vị trong sư đoàn.
Không chịu “an phận”, đã là người lính phải trực tiếp chiến đấu, Nguyễn Văn Chính báo cáo đơn vị xung phong ra mặt trận. Cuối năm 1966, đầu năm 1967, sau nhiều tháng cùng đồng đội hành quân bộ từ Hòa Bình vào Mặt trận Quảng Trị, ông được biên chế về Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 48, Sư đoàn 320A. Tại đây, Nguyễn Văn Chính tham gia nhiều trận đánh ác liệt, trong đó trận tiến công Chi khu Cam Lộ (Quảng Trị) đêm Giao thừa Tết Mậu Thân 1968. Đó là trận đánh cuối cùng, cũng là trận đánh đáng nhớ nhất ông từng tham gia.
Mắt như nhìn về xa xăm, cựu chiến binh Nguyễn Văn Chính bồi hồi nhớ lại: Trung đội 4 do tôi phụ trách có 32 bộc phá viên, 3 anh nuôi, được tăng cường 2 súng phun lửa, 2 đại liên, toàn bộ hỏa lực B40, B41 của đại đội; có nhiệm vụ mở cửa bằng bộc phá liên tục. Đơn vị tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ ăn Tết trước 2 ngày, mọi công tác chuẩn bị chiến đấu xong trước Giao thừa.
- Đúng thời khắc Giao thừa, tôi chỉ huy các tổ bộc phá của trung đội lần lượt xông lên điểm hỏa. Lúc đầu địch bị bất ngờ choáng váng, nhưng sau đó chúng kịp củng cố lại lực lượng, tập trung hỏa lực bắn rất mạnh về hướng cửa mở và huy động lực lượng hòng bịt cửa mở. Nhiều chiến sĩ của trung đội bị thương, nhưng tôi động viên anh em không nao núng, quyết tâm mở bằng được cửa mở. Lớp hàng rào cuối cùng được mở, tôi ôm quả bộc phá khối lên đánh lô cốt đầu cầu, điểm hỏa xong về vị trí ẩn nấp. Vừa nằm xuống thì một chớp lửa kèm theo tiếng nổ dữ dội vang lên. Tôi lịm đi không biết gì nữa... Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang nằm ở trạm xá tiền phương của mặt trận, đầu quấn kín băng. Sau này tôi được biết, trận đánh Chi khu Cam Lộ hôm đó, toàn Trung đội 4 chỉ có tôi và 3 chiến sĩ anh nuôi còn sống”.
Do vết thương ở đầu quá nặng, Nguyễn Văn Chính được ra Bắc tiếp tục điều trị. Năm 1973, ông chuyển ngành về lại Nhà máy Dệt kim Đông Xuân công tác cho đến năm 1995 thì nghỉ hưu.
Trọn nghĩa, vẹn tình với đồng đội
- Văn phòng Hội sao bác không treo biển? - Tôi đem thắc mắc khi đi tìm địa chỉ, hỏi ông.
Chưa kịp trả lời câu hỏi của tôi thì điện thoại đổ chuông. Nghe xong, ông nói với tôi: “Ngày nào cũng có điện thoại của thân nhân liệt sĩ gọi đến nhờ tìm phần mộ, có ngày tôi nhận tới 50 cuộc điện thoại từ khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước gọi đến”.
Rồi giọng ông nghẹn lại, đôi mắt ngấn lệ: “Trước khi bước vào trận đánh đêm Giao thừa Tết Mậu Thân 1968, chúng tôi đã hứa với nhau: Là người lính chúng ta phải làm tròn nhiệm vụ với Đảng, với Tổ quốc, dù có phải hy sinh. Sau này, nếu ai còn, hãy về thăm lại chiến trường xưa và thắp nén hương thơm nhớ về đồng đội”.
Nặng tình với đồng đội, sau khi nghỉ hưu, ông cùng một số cựu chiến binh thành lập Hội đồng đội Hà Nội để thực hiện lời hứa năm xưa. Bản thân ông làm hội trưởng từ đó đến nay, không một đồng lương. Hội không có trụ sở riêng, mà lấy nhà ông làm văn phòng giao dịch. Khi nào có các cuộc họp lớn thì Hội nhờ mượn hội trường của bảo tàng, hoặc nhà khách quân đội. Năm nào cũng vậy, hội đều tổ chức các cuộc đi tìm đón đồng đội đã hy sinh. Hội không có kinh phí hoạt động, tất cả hội viên tham gia đều trên tinh thần tự nguyện.
Các chuyến đi tìm đón liệt sĩ do Hội đồng đội Hà Nội và cựu chiến binh Nguyễn Văn Chính tổ chức đều không nhận bất cứ sự tài trợ nào của thân nhân gia đình liệt sĩ; mọi chi phí đi lại, sinh hoạt đều do ông và các hội viên trực tiếp đi tự nguyện đóng góp. Vì thế, khi mới thành lập, Hội đồng đội Hà Nội đặt ra mục tiêu chỉ tìm đón những liệt sĩ cùng đơn vị và ở địa bàn Hà Nội, nhưng đến nay đã có 43 tỉnh, thành phố trong cả nước gửi danh sách liệt sĩ về nhờ hội tìm giúp. Hiện nay, hội đã tìm được liệt sĩ của 26 tỉnh, thành phố trong cả nước. Từ năm 1995 đến nay, năm ít hội cũng tìm đón được 12 hài cốt liệt sĩ, năm nhiều được 18 hài cốt liệt sĩ. 18 năm trên cương vị hội trưởng, cựu chiến binh Nguyễn Văn Chính đã trực tiếp thực hiện gần 200 cuộc tìm đón liệt sĩ trên khắp mọi miền của Tổ quốc, nơi xa nhất là Tây Ninh, nơi gần nhất là Quảng Bình.
Bà Nguyễn Thị Bích Liên, 54 tuổi nhà ở số 10/37 đường Cù Chính Lan, phường Trần Tế Xương, TP Nam Định là con gái của liệt sĩ Đỗ Văn Tạc (thuộc Trung đoàn 8, Sư đoàn 324) xúc động chia sẻ: “Gia đình tôi hết sức biết ơn Hội đồng đội Hà Nội và ông Chủ tịch Nguyễn Văn Chính. Bố tôi hy sinh ngày 29-6-1972 tại chiến trường Trị Thiên, gia đình đi tìm suốt 10 năm, nhưng không có kết quả. Ông Chính và một số hội viên cùng với gia đình ăn, ngủ hơn một tuần liền trên rừng để đi tìm kiếm. Gia đình có ý muốn cảm ơn, bồi dưỡng, nhưng các bác ấy không nhận bất cứ sự tài trợ nào về vật chất, tiền bạc của gia đình và nói rằng: Đây là việc làm tự nguyện, là tấm lòng chúng tôi thực hiện lời hứa với đồng đội”.
Chia tay “ông Hội trưởng” ra về khi phố phường Hà Nội đã lên đèn, tôi nghe văng vẳng lời bài hát “Một rừng cây một đời người” của tác giả Trần Long Ẩn: “...Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng/ Gian khổ sẽ dành phần ai/ Ai cũng một trời trẻ trai, cũng từng nghĩ về đời mình. Phải đâu may nhờ rủi chịu, phải đâu trong đục cũng đành/ Phải không anh, phải không em?”. Vâng! Với cựu chiến binh, thương binh Nguyễn Văn Chính, ông không chọn việc nhẹ nhàng, không chịu sống đời nhỏ nhoi. Cuộc đời, tấm lòng và việc làm của ông và Hội đồng đội Hà Nội đáng trân trọng biết bao!
Bài và ảnh: NGUYỄN VĂN CHUNG