Bài 2: Vàm Lũng còn xa ngái
QĐND - Đại úy Bạch Hoàng Phủ tỏ ra là tay lái vỏ lãi cừ khôi. Sau khi khéo léo luồn lách qua những con rạch nhỏ trong um tùm rừng, miên man vườn và ngoắt ngoéo vuông tôm... anh vít ga cho chiếc vỏ lãi chồm qua những con sóng khi ra đến sông Cửa Lớn. Mái tóc tung bay trong gió, làn da sạm trong nắng, giọng nói oang oang át cả tiếng máy, anh bảo, người miền Tây, lái vỏ như người ta đi xe đạp trên thành phố, ai cũng làm được.
Lại sau một hồi quẹo trái, quẹo phải chúng tôi đến được cửa Vàm Lũng, một cửa sông, một địa danh trở nên nổi tiếng gắn liền với lịch sử những chuyến tàu không số chở vũ khí chi viện cho chiến trường Khu 9 trong những năm tháng chiến tranh. Vàm Lũng là đây, là địa danh mà chúng tôi biết qua những dòng thơ được tạc trang trọng dưới cụm tượng đài “Chiến thắng bến Vàm Lũng” của tác giả Trần Hiếu Hùng mới khánh thành cách đây không lâu, có tựa đề “Vàm Lũng kiên cường”, thấy hào sảng một tấm lòng của người dân Cà Mau. Bài thơ như một lời thề: “Từ Mũi Cà Mau/ Đoàn tàu xuất bến/Mở đường “Hồ Chí Minh trên biển” tiên phong/Bằng nhiệt huyết những chàng trai Rạch Gốc/Bão táp phong ba không hề nao núng/ Máy bay, tàu giặc rào chắn dọc ngang/Chiến trường cần đạn, súng/Dù hy sinh: Tất cả sẵn sàng!/Về với Bác Hồ: Tàu Cà Mau thẳng hướng/Bông Văn Dĩa kiên cường, Lê Văn Một hiên ngang/Chuyến tàu “Phương Đông”/Mở con đường huyền thoại/Từ đó, cuộc hành trình tiếp nối…/Ước vọng một ngày thống nhất non sông/...”.
Khác với những suy đoán ban đầu, cửa Vàm Lũng hiện ra trước mắt tôi vẫn “bí mật” như ngày nào khi chỉ có biển, đước và một vài chiếc lều của người dân đánh cá, nuôi tôm dựng sơ sài giống như những gì đã thấy, đã gặp ở nhiều cửa biển khác.
 |
| Tượng đài “Chiến thắng bến Vàm Lũng”. |
Theo nguyện vọng của tôi, Đại úy Phủ cho vỏ chạy tuốt ra biển dù đã cảnh báo, ra ngoài, sóng to, có thể làm lật vỏ. Chạy thoát cửa Vàm Lũng ra biển được khoảng 700m thì sóng đã to lắm buộc chúng tôi phải quyết định quay vào. Từ đây nhìn vào cửa Vàm Lũng, thấy không phải ngẫu nhiên mà những người nhận nhiệm vụ tiền trạm lập bến trước đây lại chọn địa điểm này. Giữa mênh mông rừng đước, cửa Vàm Lũng như một con đường chạy thẳng ra biển, có độ sâu đủ cho tàu trăm tấn ra vào thoải mái. Lọt qua Vàm Lũng, vào bên trong lại có những luồng lạch ngang dọc chằng chịt được che phủ bởi những thân đước to um tùm che phủ như chạy trong rừng. Bởi vậy, khi đã lọt qua Vàm Lũng, thì dù địch có săm soi trên trời bằng trực thăng cũng khó phát hiện tàu của ta chạy hướng nào, vũ khí được cất giấu ở đâu. Hiểm yếu như vậy nên trước đây, hầu hết địch đều dùng phương tiện để ngăn chặn tàu ta bên ngoài biển mà ít dám thâm nhập bởi trong rừng đước thiên la địa võng ấy, vào thì dễ mà ra thì khó…
Tôi muốn chạy ra biển để tới chỗ con tàu mang số hiệu 69 của Thuyền trưởng Nguyễn Hữu Phước với 121 vết đạn của địch trên mình không thể trở lại miền Bắc, sau khi đã thả hàng và gặp địch chặn lúc quay ra. Câu chuyện chiến đấu dũng cảm, với tấm gương “La Văn Cầu trên biển” của đồng chí Phan Hải Hồ và tập thể cán bộ chiến sĩ Tàu 69 với kẻ địch đông gấp bội này qua lời kể của Thuyền trưởng Nguyễn Hữu Phước cùng tấm hải đồ ông giữ từ ngày ấy, xin được nói đến trong bài viết khác, nhưng con tàu, hiện vật quý ấy bây giờ thì đã nằm sâu ngoài biển. Thực ra, nó vẫn ở đó, chỗ cuối cùng sau nhiều lần vận động di chuyển để tránh địch phát hiện suốt quãng thời gian từ tháng 4-1966 đến tận ngày hôm nay. Tàu 69 nằm nguyên ở vị trí đó còn biển thì ngày một ăn sâu vào đất liền. Theo nhiều người dân ở vùng này, nếu tính từ cửa biển Vàm Lũng bây giờ ra đến nơi con tàu nằm là khoảng 5km. Tất nhiên, cùng với sự hủy hoại của thời gian, mưa nắng, con tàu không còn được lành lặn như trước đây. Nhưng với vỏ tàu, khung sườn con tàu, những vết đạn địch để lại phía trên mớm nước sau trận đánh dữ dội ấy, nó vẫn còn hình hài và xứng đáng được trân trọng lưu giữ ở một bảo tàng lớn nào đó của đất nước, một hiện vật thuyết phục hiếm có trong công tác giáo dục truyền thống đối với mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Tiếc rằng, cho đến tận bây giờ, chúng ta chưa làm được điều đó.
Tôi và Đại úy Bạch Hoàng Phủ tấp vỏ lãi vào bãi biển bên trái Vàm Lũng. Bãi biển, nói đúng hơn là một doi cát nhỏ hiếm hoi nằm bên phải cửa Vàm Lũng nhìn từ biển vào như một chốn hoang vu toàn vỏ ốc, gốc cây và rác do sóng biển đánh lên. Không một biển báo, không một bóng người… Cửa Vàm Lũng hôm nay giống như bất kỳ cửa biển nào khác trên vùng biển cực Nam của Tổ quốc, dù rằng từ đây, vỏ lãi có thể men theo bờ biển chạy “một chập” như lời Đại úy Bạch Hoàng Phủ, là đến Mũi Cà Mau, địa danh nhiều người dân trong nước, du khách quốc tế đã biết và từng đặt chân đến. Đi dọc bãi biển, tôi chạnh lòng bởi đã nghe nhiều nhân chứng kể lại, Vàm Lũng ngày ấy từng được ví như một “Sài Gòn mới” trong những năm tháng chiến tranh với những kho hàng, những con người dù giữa gian khổ, khó khăn nhưng vẫn phơi phới niềm tin và nụ cười chiến thắng, bây giờ trở nên xa xôi…
Để Vàm Lũng trở thành một địa chỉ đỏ cho nhân dân, đồng bào cả nước đến thăm khi có dịp đến với mảnh đất phía Nam này chúng tôi nghĩ rằng không quá khó. Một tấm biển báo trang trọng, những kho vũ khí được dựng lên từ những thân đước to cỡ bắp chân, cao hơn những mớm nước khi thủy triều lên, lợp lá dừa nước… những nguyên vật liệu đặc thù của Cà Mau quá dễ tìm kiếm để tái tạo lại những kho hàng năm xưa. Nối giữa những kho hàng, những cây cầu nhỏ, vững chắc cũng bằng cây đước là cuộc sống, sinh hoạt, chiến đấu của hàng trăm cán bộ, chiến sĩ Đoàn 962 do Đoàn trưởng Bông Văn Dĩa chỉ huy cũng quá đơn giản để tái tạo, phục dựng. Ngay tại địa danh này, chúng tôi ước ao được nếm những loại bánh như bánh “quai chèo”, bánh “bò”, bánh “bột đậu” mà như lời kể của đồng chí Huỳnh Biên Thùy, một nữ chiến sĩ nuôi quân cùng những đồng đội từng làm phục vụ cán bộ, chiến sĩ đơn vị trước đây. Trong không gian này, những câu chuyện chiến đấu, những hiện vật gắn liền với Vàm Lũng chắc chắn sẽ thuyết phục du khách hơn nhiều lần...
Tiếc rằng, đến bây giờ những câu chuyện ấy vẫn chỉ “thực thực, ảo ảo” trong sách báo qua lời kể của các nhân chứng từng tham gia chiến đấu ở đây nay đã người còn, người mất. Chưa làm được điều này, ngoài việc bỏ qua mất một địa chỉ giáo dục truyền thống thuyết phục ngay chính nơi có bề dày truyền thống cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ, Ngọc Hiển còn để vuột mất một cơ hội phát triển du lịch, tạo công ăn việc làm tăng thu nhập cho người dân.
Cụm tượng đài “Chiến thắng bến Vàm Lũng” được đặt trang trọng ngay bên cạnh trụ sở của Đảng ủy, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân huyện Ngọc Hiển mới. Không phải ngẫu nhiên, khi tách huyện, toàn bộ cơ ngơi của các cơ quan Dân-Chính-Đảng địa phương được xây mới toàn bộ đúng ở vị trí hiện nay mà không phải ở những nơi có điều kiện tự nhiên tốt hơn, dân cư sinh sống đông đúc như thị trấn Rạch Gốc. Ý tưởng chiến lược này theo lãnh đạo địa phương, xuất phát từ ý nguyện gắn với rừng đước, Vàm Lũng, những căn cứ bí mật trong chiến tranh của cán bộ và nhân dân Ngọc Hiển - địa phương được vinh dự mang tên của chiến sĩ cách mạng Phan Ngọc Hiển, người gắn với cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai tại Cà Mau, một bộ phận của Khởi nghĩa Nam Kỳ chống chính quyền thực dân Pháp. Mới 7 năm đứng chân trên vùng đất mới nên có thể nói nhìn đâu cũng thấy khó khăn. Thế nhưng “vạn sự khởi đầu nan”, dù hằng ngày vẫn phải vắt óc suy nghĩ cho bát cơm của người dân ngày một đầy hơn thì việc đầu tư công sức, thời gian chăm lo quá khứ cũng là một công việc không kém phần quan trọng. Ngọc Hiển đã có một Mũi Cà Mau nổi tiếng thu hút ngày một đông du khách thì cũng có thể làm cho Vàm Lũng, cửa biển chứa đựng biết bao di sản kháng chiến trở nên gần gũi với du khách gần xa…
Đặt chân đến Vàm Lũng trong những ngày cả nước đang đầy ắp những hoạt động kỷ niệm 50 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển, chúng tôi miên man với biết bao suy nghĩ, mong mỏi. Cùng với nhiều bến, bãi nhận hàng, nơi đây xứng đáng được vinh danh như một địa chỉ đỏ gắn với con đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại. Cùng với quân và dân cả nước, quân và dân Vàm Lũng đã góp phần viết nên lịch sử kháng chiến của dân tộc, tạo nên dấu ấn không thể quên đối với nhiều thế hệ người Việt Nam. Khơi thông tiềm năng, biến vùng đất, biển giàu truyền thống cách mạng này thành một địa chỉ “về nguồn” phải bắt đầu ngay từ hôm nay, khi chưa quá muộn.
-----------
Bài 1: Chuyện của người giữ kho vũ khí năm xưa
Bài 3: Một con đường mở tương lai
Bài và ảnh: TUẤN ANH - VIỆT HÀ